HomeBG BÀI GIẢNG HAY - SERMONSBG Của MS N. Duy TânBG “Giáng Sinh Để Chịu Khổ” – MS Tân

Mục sư Nguyễn Duy Tân – © 2017

Philíp 2:6 ‘’Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi sự bình đẳng của mình với Đức Chúa Trời là sự nên nắm giữ, chính Ngài đã tự bỏ mình đi, lấy hình TÔI TỚ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra như loài người, tự hạ mình xuống, vâng phục cho đến chết, thậm chí CHẾT TRÊN CÂY THẬP TỰ.’’

Giăng 3:16 “Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nỗi đã ban Con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy KHÔNG BỊ HƯ MẤT mà được sự sống đời đời.”

mary_holding_jesus11

Nhập đề: Trong khi hàng năm chúng ta vui vẻ kỷ niệm Chúa Giáng Sinh cách tưng bừng vì đó là một biến cố đem đến sự vui mừng cho nhân loại, thì hãy nhớ lại sự giáng sinh của Chúa Jêsus là một hình ảnh của sự ĐAU KHỔ. Đức Chúa Cha đã đau lòng ban Con của Ngài cho thế gian để chịu đóng đinh trên thập tự giá. Ma-ri mẹ Ngài thì vô cùng đau lòng vì biết được con mình sinh ra để chết thay cho nhân loại. Có lời tiên tri nói rằng trái tim của bà lúc nào cũng đau đớn như có một mủi giáo đâm thủng vào. Đức Chúa Con đã bỏ lại hết mọi vinh quang nơi thiên đàng, chấp nhận hạ sinh nơi chuồng chiên hôi hám, không nệm êm chăn ấm. Ngài phải chịu lớn lên trong một xã hội đầy thù hận và đau khổ để rồi cuối cùng phải làm cho trọn trách nhiệm của mình tại thập tự giá. Tại sao Con Trời lại chấp nhận một cuộc sống đầy thương đau như vậy? Có phải Ngài muốn giải cứu chúng ta khỏi đời sống đầy đau khổ nầy chăng, hay còn cái khổ nào ghê gớm hơn thế nữa?

  1. Chỉ Có Đời Nầy Mới Là Bể Khổ Mà Thôi?

Phật giáo cho rằng “Đời là bể khổ”, mà quả thật như vậy. Mọi người trên đời không ai không khỏi nếm trải những cái khổ. Người giàu cũng khổ, người có quyền thế cũng khổ chứ không riêng gì người nghèo.

Có những cái khổ do chính cá nhân người ta tự tạo ra bởi lỗi lầm hay lòng tham chẳng hạn. Đó là luật nhân quả mà đạo Phật nói đến. Kẻ làm ác chẳng những sẽ gặp đau khổ trên đời nầy mà còn đau khổ ở KIẾP SAU. Có những thứ khổ mà người ta gặp phải là do người khác gây ra. Có những cái khổ xảy đến dường như không có lý do, nhưng theo Phật giáo thì vẫn có căn nguyên. Vì kiếp trước người nào sống gian ác thì kiếp nầy họ phải gặp nhiều khổ đau. Đó là CÁI NGHIỆP của họ. Muốn cho kiếp sau bớt khổ thì kiếp nầy phải tu thân, tích đức, ăn hiền ở lành, và phải liên tục tu như vậy nhiều đời nhiều kiếp (“a tăng tì kiếp”), có thể cả nghìn kiếp, thì mới mong “được siêu thoát”, tức được lên đến cõi cực lạc (Niết Bàn, cõi Phật), nếu không thì sẽ đầu thai trở lại thế giới đầy đau khổ nầy.

Những lẽ đạo nầy của Phật giáo CHỈ CÓ liên quan đến đời sống trên trần gian, dài lắm là 100 năm. Đối với Thánh Kinh thì LẼ THẬT về sự đau khổ được diễn tả cách LỚN RỘNG hơn. Đối với một con người không có Chúa thì chẳng những đời nầy là “bể khổ” cho họ, mà đời sau linh hồn họ vẫn còn tồn tại trong “bể lửa”, nghìn lần khổ hơn. Không phải chỉ có một kiếp 100 năm, nhưng nghìn nghìn năm, tức đời đời vô tận!

Giăng 3:16, Kinh Thánh dạy“Vì Đức Chúa Trời yêu thương thế gian, đến nổi đã ban con một của Ngài, hầu cho hễ ai tin Con ấy, không bị hư mất, mà được sự sống đời đời.” Người tin Con Đức Chúa Trời thì “được SỰ SỐNG ĐỜI ĐỜI” phước hạnh trong Nước Chúa. Còn người không tin thì “BỊ HƯ MẤT”, có nghĩa là hư mất ĐỜI ĐỜI trong hoả ngục đau khổ, mà không có cơ hội đầu thai.

Rôma 6:23 – “Vì tiền công của tội lỗi là sự chết (đời đời), nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời.”  Theo câu Kinh Thánh nầy thì sự hư mất là cái hậu quả của người có tội, đó là “sự chết” đời đời của linh hồn họ.

 Tại sao người có tội phải chịu đau khổ NẶNG NỀ như vậy? Đức Chúa Trời có giải pháp kỳ diệu nào cho họ không? Đối với Đức Chúa Trời, phần lớn tội lỗi của con người phàm là vi phạm luật pháp của Đức Chúa Trời là Đấng lớn lao VÔ HẠN. Cho nên công đức của một con người HỮU HẠN KHÔNG THỂ đền bù được những tội lỗi phạm đến Đấng Vô Hạn. Không khác nào chúng ta thiếu người ta bạc tỉ mà trả nợ thì bằng bạc cắc bạc lẻ thì biết chừng nào mới trả xong! Nhưng đạo Phật thì dạy rằng con người có thể lập công đức để chuộc lại tội lỗi của mình, vì họ nghĩ rằng tội lỗi là gây nên đau khổ hay mất mác CHO NGƯỜI KHÁC chứ không có luận đến luật pháp của Đức Chúa Trời. Nhưng cho dù người nào gây tổn hại đến một người tầm thường thì liệu công đức của người đó có thể CHUỘC LẠI tội lỗi của mình không? Thật ra theo lời Phật dạy thì không thể! Chính Phật Thích ca có tuyên bố rằng: “Một ý niệm sân si, tiêu tan vạn rừng công đức”! Như vậy việc lập công đức để diệt tội thật là một phương cách hoàn toàn KHÔNG CÓ LỐI THOÁT!

Nếu suy nghĩ theo logic là cũng thấy cách đó đã sai rồi. Ví dụ hôm nay mình bố thí $100 cho người nghèo để chuộc lại tội ăn cắp $100 của người khác vào năm 2000 thì có ích lợi gì không? Thứ nhất, vì $100 vào năm 2017 nầy không có giá trị bằng $100 hồi năm 2000! Thứ nhì, $100 mà mình đánh cắp của người khác biết đâu đó là tiền người ta cần để mua thuốc trị bệnh cho con của họ, và vì mất số tiền đó biết đâu con của họ đã qua đời? Thứ ba, khi mình giúp cho một người nghèo, theo lý giải của Phật, thì mình khiến cho cái nghiệp nghèo khổ của họ kéo dài ra thêm, vì họ cần phải trả cái ác mà họ đã gieo trong kiếp trước! Thứ Tư, khi một người ăn cắp $100 thì chẳng những người đó gây tổn hại đến một người khác, nhưng đồng một lúc cũng vi phạm luật pháp mà Đức Chúa Trời đã ghi trong lương tâm họtrong Kinh Thánh, vì thế tội đó cũng là tội không vâng phục Đức Chúa Trời!

Phần lớn các tội phạm của loài người đều là tội chống nghịch lại Đức Chúa Trời vĩ đại, nên đối với Kinh Thánh tội lỗi là vô cùng nghiêm trọng. Không có CÔNG ĐỨC nào của con người có đủ giá trị để chuộc lấy những tội mà mình đã phạm với Ngài. Vì cớ đó mà Lời Chúa nói rằng, “… mọi việc công bình của chúng tôi như áo nhớp.” (Êsai 64:6). Như vậy thì kế hoạch lấy sức riêng lập công đức và tự tu chỉnh là một tư tưởng cao quý nhưng là một phương cách HOÀN TOÀN VÔ VỌNG cho những ai muốn tìm đường GIẢI THOÁT khỏi những đau khổ bất tận mà loài người sẽ gặp phải! Nếu có một con đường giải thoát nào khả thi, hiệu quả, thì phương pháp đó phải đến từ bên ngoài con người chúng ta và phải thỏa mãn được luật pháp của chính Đức Chúa Trời mà thôi!

  1. Kế Hoạch Cứu Rỗi Chắc Chắn Của Đức Chúa Trời

Nếu tội lỗi là sự vi phạm luật Trời, thì CHỈ CÓ Đức Chúa Trời mới có quyền tha thứ và giải cứu tội nhân khỏi hậu quả của tội lỗi là sự chết đời đời. Đức Chúa Trời có rất nhiều đặc tính, trong đó có đức THÁNH KHIẾT, vì cớ đó tội nhân không thể nào đến gần Ngài hay được ở với Ngài. Ngài có đức CÔNG BẰNG tuyệt đối, nên không thể tha những tội phạm đến chính Ngài dựa trên công đức của người có tội. Trước mặt Chúa, công đức của con người chúng ta KHÔNG CÓ ĐỦ giá trị. Vì thế, Đức Chúa Trời đã phải lập ra phương án của Ngài, đó là Ngài ban cho nhân loại chính Con của Ngài giáng thế làm người để chịu khổ thay cho tất cả chúng ta, chấp nhận bị đánh đập và thương tích đầy đau đớn, đổ huyết và chịu chết để đền tội cho tất cả những người nào chịu ăn năn tội. Nhờ đó luật Trời được thỏa mãn, người theo Chúa được giảm bớt đau khổ, và tội nhân mới có cơ hội được tha thứ hay “xá tội” nếu nói theo Phật giáo.

Con của Đức Chúa Trời là ai mà CÓ ĐỦ GIÁ TRỊ để chết thay cho chúng ta và cho toàn thể nhân loại? Con của Ngài có giá trị vĩ đại vì chính Con ấy có sự bình đẳng với ĐỨC CHÚA TRỜI. Con ấy chính là Đức Chúa Trời và chỉ mang hình thể một em bé khi giáng thế mà thôi. Giăng gọi Con trẻ được sinh ra từ bụng dạ của Ma-ri, tức Hài nhi Jêsus, là “Ngôi Lời.”

 Giăng 1:1 – “Ban đầu có Ngôi Lời, Ngôi Lời Ở CÙNG Đức Chúa Trời, và Ngôi Lời LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI. 2 Ban đầu Ngài ở cùng Đức Chúa Trời. 3 Muôn vật BỞI NGÀI LÀM NÊN, chẳng vật chi đã làm nên mà không bởi Ngài.”

Câu nầy cho thấy Hài nhi Jêsus CŨNG CHÍNH LÀ ĐỨC CHÚA TRỜI. Ngài đã hiện hữu trước muôn vật và đồng HIỆN HỮU với Đức Chúa Cha. Trong buổi “ban đầu” đó chính Ngài là Đấng Tạo Hóa, là Ngôi Hai đã đồng LÀM VIỆC với Đức Chúa Cha để tạo dựng vũ trụ.

Ngôi Lời ra từ Đức Chúa Cha nên còn được gọi là CON MỘT của Đức Chúa Trời, với một BẢN THỂ BÌNH ĐẲNG với Cha Ngài. Trong Giăng 1:18 “Chẳng hề ai thấy Đức Chúa Trời, chỉ Con một ở trong lòng Cha, là Đấng đã giải bày Cha cho chúng ta biết.”

Chỉ có một Đấng lớn lao và cao cả như Con Đức Chúa Trời mới có ĐỦ SỨC NẶNG VÀ GIÁ TRỊ để chết thay cho tội nhân, nhất là chết thay cho toàn thể nhân loại thuộc mọi thời đại.

Để có thể giảng dạy cho loài người sứ điệp từ Đức Chúa Trời và chết thay cho tội nhân, Ngôi Lời cần phải “nhập thể”, mặc lấy một thân thể có thịt và huyết và lớn lên như mọi người. Để có thể vừa đại diện cho Đức Chúa Trời và vừa thay mặt cho loài người, Ngài phải được hoài thai bởi chính Đức Chúa Trời và cần tử cung của một người mẹ bằng xương bằng thịt để sinh ra.

Mathiơ 1:18 ghi “…Ma-ri mẹ Ngài đã đính hôn cùng Giô-sép, nhưng trước khi hai người chung sống, thì Ma-ri ĐÃ THỤ THAI DO QUYỀN PHÉP ĐỨC THÁNH LINH.”

Luca 1:35 ghi: “Thiên sứ truyền rằng: Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng Rất Cao sẽ CHE PHỦ ngươi dưới bóng mình, cho nên con thánh sanh ra, phải xưng là Con Đức Chúa Trời.”

Êsai 7:14 ghi: “Vậy nên, chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: nầy một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sanh ra một trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên.”

 Như vậy, theo hai câu Kinh Thánh trong Mathiơ và Luca thì Cha của Con Thánh chính là Đức Thánh Linh, vì Đức Thánh Linh do quyền phép của Ngài đã “che phủ” trên một trinh nữ là Ma-ri nên cô đã mang thai một cách siêu nhiên lạ lùng. Luca đọan 1:35 xưng Ngài là Con Đức Chúa Trời. Theo Êsai thì con trái ấy là Em-ma-nu-ên hay Đức Chúa Trời ở với chúng ta. Cho nên đây là một trong những bằng chứng để chúng ta có thể hiểu rằng Đức Thánh Linh chính là Đức Chúa Trời, và Con Thánh chính là Đức Chúa Trời “thành nhục thể”.

Đức Chúa Trời đã đoái thương đến một con người hèn mọn, đã làm một công việc đầy mầu nhiệm, một phép lạ xảy đến duy CHỈ MỘT LẦN trong lịch sử nhân loại. Và kết quả là cô Ma-ri đã mang một cái thai vô cùng đặc biệt, sinh ra một bé trai mà tôi tin rằng trong các tế bào của Ngài chắc chắn chỉ có những genes đến từ các tế bào của một phụ nữ và không có genes của một người nam giống như bất cứ con người nào khác sinh ra trên đời nầy. Bình thường, trong tế bào của chúng ta có 23 chromosomes, và chromosome thứ 23 quyết định cho một em bé trở thành con trai hay con gái. Con gái thì có chromosome XX, con trai thì có chromosome XY, và chromosome Y là gene đến từ người cha. Tôi tin rằng Đức Chúa Con, ngoài chromosome X nhận từ Ma-ri, Ngài không có chromosome Y của người nam thường, nhưng phải có một chromosome Y đặt biệt nhận từ Đức Thánh Linh, là Cha của Ngài! Đó chỉ là suy luận của tôi theo khoa học, để trả lời cho một số người vô thần đã bắt bẻ rằng, nếu Đức Chúa Con không có cha, thì chromosome #23 của Ngài là XX, vậy thì Chúa Jêsus là một người nữ!

Dù sao, vì Kinh Thánh gọi Chúa Jêsus là CON TRAI, và Con trai đó được gọi là “Con của Đức Chúa Trời” nên Ngài có BẢN CHẤT THIÊNG LIÊNG tức là có THẦN LINH của Đức Chúa Trời trong mình, nhưng cũng có bản chất THUỘC VỀ ĐẤT nhận từ mẹ phần xác, nên chúng ta có thể nói rằng trong vũ trụ nầy, trong thế giới xưa nay, chỉ có một Đấng DUY NHẤT hoàn toàn VỪA LÀ TRỜI và hoàn toàn VỪA LÀ NGƯỜI.

 Trên phương diện THUỘC THỂ, Ngài là con người DUY NHẤT TUYỆT ĐỐI VÔ TỘI nên có ĐỦ TƯ CÁCH để CHẾT THẾ cho tội nhân, chịu đoán phạt vì tội lỗi của họ.

Trên phương diện THUỘC LINH, Ngài là Đức Chúa Trời nên có đủ TƯ CÁCH VÀ GIÁ TRỊ để TRẢ GIÁ cho những tội ác lớn lao, là tội nghịch cùng Đức Chúa Trời của nhân loại. Ngài có đủ THẨM QUYỀN để THA THỨ cho tội nhân biết ăn năn trong hiện tại; hoặc XÉT XỬ những kẻ khước từ phương án cứu rỗi của Đức Chúa Trời trong ngày cuối cùng.

Ngài mang cả HAI BẢN THỂ nên xứng đáng để CHẾT THAY cho tội nhân, nhưng cũng có đủ phẩm cách để THA TỘI cho người biết ăn năn. Ngài cũng có đủ tiêu chuẩn để làm TRUNG GIAN (Đấng Trung Bảo) giữa Đức Chúa Trời và loài người hầu lắng nghe lời cầu nguyện và cầu thay cho họ.

 Bản thể HỮU HÌNH thuộc bụi đất giúp cho Ngài khả năng THÔNG CẢM cho sự yếu đuối của chúng ta. Bản thể VÔ HÌNH của Đức Chúa Trời cho Ngài QUYỀN NĂNG GIẢI CỨU chúng ta KHỎI QUYỀN LỰC CỦA TỘI LỖI, SỰ CHẾT, BỆNH TẬT, VÀ MA QUỶ.

Găng 1:10 – “Ngôi Lời ở thế gian, và thế gian đã làm nên bởi Ngài; nhưng thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài. Ngài đến trong xứ mình nhưng dân mình chẳng hề nhận lấy.”

Tại sao chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời quá tuyệt vời và khôn ngoan như vậy mà “thế gian chẳng từng nhìn biết Ngài’’?  1. Vì nhiều người không hiểu rõ. Vì thế là Cơ-đốc nhân chúng ta có trách nhiệm đến với những người đó, nói rõ về chương trình và kế hoạch cứu rỗi của Đức Chúa Trời để giúp đưa họ đến cùng Ngài. 2. Vì lòng kiêu ngạo của nhiều người trên thế giới, nên chúng ta phải rất cực khổ mới giúp được cho những hạng người nầy đầu phục Chúa. Họ LẦM TƯỞNG rằng MÌNH CÓ THỂ TỰ GIẢI CỨU qua việc lập công đức, nên từ khước phương pháp cứu rỗi từ trên cao của Chúa Cứu Thế. 3. Dân của Chúa là người Do-thái khước từ Chúa, vì khi Ngài giáng thế, Ngài mang lấy bản thể của một con người tầm thường và GIẤU ĐI bản thể oai quyền của Đức Chúa Trời. 4. Một số người theo tà thuyết cũng không hiểu lẽ thật nầy nên cũng không chấp nhận sự bình đẳng của Đức Chúa Jêsus với Đức Chúa Cha. Nhưng đây là một lẽ thật vô cùng quan trọng. Nếu Đức Chúa Con không bình đẳng với Đức Chúa Cha thì Ngài không có đủ thẩm quyền và giá trị để chết thay cho những tội lỗi mà họ đã phạm cùng Đức Chúa Trời, nên niềm tin của họ cũng trở thành vô ích!

Philíp 2:6 – “Ngài vốn có hình Đức Chúa Trời, song chẳng coi SỰ BÌNH ĐẲNG CỦA MÌNH VỚI ĐỨC CHÚA TRỜI là sự nên nắm giữ, chính Ngài đã TỰ BỎ MÌNH ĐI, LẤY HÌNH TÔI TỚ và trở nên giống như loài người; Ngài đã hiện ra NHƯ LOÀI NGƯỜI, tự hạ mình xuống, VÂNG PHỤC CHO ĐẾN CHẾT, thậm chí chết trên cây thập tự.”

Phật Thích Ca là một hoàng tử của một quốc gia nhỏ, là MỘT CON NGƯỜI BÌNH THƯỜNG có đủ giàu sang và quyền thế, nhưng ngài chấp nhận bỏ hết mọi điều đó để chọn đời sống người vô gia cư, để tìm con đường giải thoát CHO CHÍNH MÌNH khỏi cuộc đời đầy đau khổ nầy. Ngài chỉ có ý định LÀM GƯƠNG NHƯ MỘT VỊ THẦY để người khác NOI THEO con đường tu luyện của ngài chứ không hề có một lời hứa giải cứu người nào khỏi cuộc đời đau khổ nầy cả!

Trong khi đó, Đức Chúa Jêsus tuyên bố Ngài đến để giải cứu chúng ta khỏi tội. Ngài là Vua trên muôn vua, Chúa trên muôn chúa, là Đấng Tạo Hóa, là Đức Chúa Trời quyền năng, nhưng Ngài đã HẠ MÌNH THẬT THẤP, sẵn sàng bỏ hết mọi vinh quang CỦA THIÊN ĐÀNG để giáng sinh làm người. Ngài chấp nhận nằm trong bụng dạ một thiếu nữ hèn mọn, sinh ra nơi một chuồng chiên hôi hám, được bọc bằng một mảnh vải dành để quấn những con chiên con mới sinh **, với một cái máng rơm thô sơ để làm giường ngủ. Ngài phải chịu cảnh tị nạn sống lưu lạc nơi xứ người ngay từ lúc tuổi còn thơ. Ngài chấp nhận lớn lên với một cuộc sống đơn sơ nghèo nàn trong một gia đình thợ mộc. Ngài bằng lòng sinh ra làm người Do-thái, một dân tộc luôn bị nhiều nước khác ức hiếp, khinh bỉ, và bắt làm tôi mọi. Ngài chịu sinh ra trong thời kỳ mà dân Ngài bị người La mã cai trị, áp bức, đối xử cách vô cùng bất công và tàn ác. Rồi lúc 30 tuổi, Ngài đi đây đó như một người vô gia cư để phục vụ mọi người không kể nghèo giàu, đạo đức hay tội lỗi. Ngài nhận mình là một đầy tớ của Đức Chúa Trời, với sứ mạng làm chứng cho Lẽ Thật, đuổi quỷ, và chữa lành tật bệnh. Ngài nói về đời sống của mình như sau: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chổ gối đầu.” (Math. 8:20)

Ngài là gương mẫu của sự hạ mình và hình ảnh của sự khiêm nhượng. Ngài chấp nhận mọi tủi nhục, thậm chí GÁNH CHỊU sự nhục nhã và đau đớn kinh hoàng nơi thập tự giá. Lý do nào Ngài chấp nhận một cái chết với những hành hạ ghê gớm như vậy? Vì Ngài muốn NHẬN CHỊU HẾT NHỮNG ĐAU KHỔ để chúng ta được THOÁT KHỎI những khổ đau TRÊN ĐỜI NẦY và sự đau đớn nơi hoả ngục TRONG ĐỜI SAU! Để được thoát khỏi những đau khổ của đời nầy và đời sau, chúng ta chỉ cần ĐẶT ĐỨC TIN nơi Chúa Jêsus, mời Ngài ngự vào lòng để làm Chủ đời mình, vì Ngài đã LẬP CÔNG ĐỨC với Đức Chúa Trời thay cho chúng ta, những công đức mà không bao giờ chúng ta có thể làm nổi.

Kết luận:   Thưa quý tín hữu! Đồng bào ta còn vô số người đang cố gắng tu hành với hy vọng mỏng manh là nhiều kiếp nữa họ sẽ được thoát khỏi cái vòng lẩn quẩn của sự đau khổ trong đời sống. Nhưng ít người biết đến một tình trạng đau khổ KINH HOÀNG HƠN tức là sự chết đời đời nơi hoả ngục mà loài người không có cách nào tự mình thoát khỏi được. Là Cơ-đốc nhân, chúng ta có trách nhiệm mang Tin Mừng của Nước Trời đến cho họ như vô số người đã và đang làm khắp thế giới.

Thưa quý thân hữu! Nếu bạn đã may mắn được nghe về chương trình cứu rỗi của Đức Chúa Trời thì tôi khích lệ bạn nên sớm nhận lấy sự cứu rỗi mà Đức Chúa Trời ban cho cách nhưng không. Dù đó là một món quà, nhưng đã được trả bằng một giá rất đắc. Chính Con Đức Chúa Trời đã tình nguyện trả cái giá đầy đau khổ để giúp cho chúng ta thoát khỏi cái khổ TRÊN ĐỜI và DƯỚI ĐỊA NGỤC. Nhờ Ngài mà sau kiếp nầy chúng ta sẽ KHỎI BỊ ĐẦU THAI để trở lại cuộc sống đầy đau khổ nầy. Nhờ Ngài chúng ta được ĐẾN GẦN Cha trên trời, được HƯỞNG Thiên Đàng đẹp đẽ, và phước hạnh vĩnh cửu.

Với sự tiến bộ vượt bậc của nghành Y khoa, ngày nay có rất nhiều Cơ-đốc nhân đã qua đời và linh hồn họ được vào tới thiên đàng đẹp đẽ, nhưng họ phải trở lại với cuộc sống vì các bác sĩ đã làm cho họ hồi sinh. Có rất nhiều người không tin Chúa cũng được hồi sinh cách tương tự trong khi linh hồn họ đã xuống tận địa ngục đầy ghê rợn và đau khổ! Những người nầy đã làm chứng cách chắc chắn rằng thiên đàng và địa ngục là những nơi có thật. Thưa quý ông bà anh chị em, sau cái chết là chưa hết. Linh hồn của chúng ta sẽ tiếp tục sống khi mình sang bên kia thế giới!

Nếu quý ông bà anh chị em không muốn cuộc đời mình phải KẾT THÚC CÁCH THÊ THẢM nơi hỏa ngục đau khổ đời đời, thì hãy đến với Chúa Cứu Thế hôm nay, nhận Ngài làm Cứu Chúa và Chủ của đời sống mình. Chắc chắn kiếp sau quý vị sẽ KHÔNG TRỞ LẠI thế giới đầy đau khổ nầy nữa, cũng sẽ KHÔNG BỊ RƠI VÀO địa ngục đầy ghê rợn, nhưng sẽ được vui hưởng một cuộc sống đầy sung mãn trường cửu trong vòng tay Đức Chúa Trời là Đấng đã tạo dựng chúng ta. Amen.

Ghi Chú: ** Một số nhà giải Kinh đã cho biết rằng, hang đá Bết lê hem là nơi có không khí ôn hòa, nên những người chăn dùng nơi đó như một “nhà bảo sanh” cho chiên. Khi chiên con mới sinh ra, thì người ta có sẵn những mảnh vải ấm (swaddling clothes) để quấn những chiên con ấy. Có vài bằng cớ giúp người ta biết rằng hang đá nầy dành cho những con chiên sinh tế mà đền thờ cần đến QUANH NĂM, nên những kẻ chăn chiên mà Lu-ca 2 nói đến là nhóm người có trách nhiệm nuôi bầy chiên sinh tế quanh năm để cung ứng cho nhu cầu của đền thờ. Họ vẫn phải cho chiên ăn cỏ bất cứ mùa nào! Họ phải chăn nuôi chúng thật kỹ NGÀY ĐÊM không để cho chiên bị một vết thương tích nào theo luật pháp về chiên sinh tế, và phải chăm sóc chúng thật chu đáo từ lúc mới sinh.

Khi những kẻ chăn nghe thiên sứ nói đến hai từ then chốt, là “bọc bằng vải” (swaddling clothes chứ không phải towel là khăn) và “máng cỏ” (manger) thì họ biết ngay, không cần hỏi thiên sứ về địa điểm. Lu-ca 2:12, Bản dịch King James, ghi rõ: “And this shall be a sign unto you; Ye shall find the babe wrapped in swaddling clothes, lying in a manger.” Họ liền đi thẳng đến hang đá nơi người ta nuôi dưỡng những con chiên non dành làm của lễ.

Thật là mầu nhiệm! Chiên Con của Đức Chúa Trời được sinh ra tại chuồng chiên dành cho chiên sinh tế, được bọc bằng mảnh vải dùng để quấn những chiên con sinh tế mới sinh!

 

 


Comments

BG “Giáng Sinh Để Chịu Khổ” – MS Tân — No Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *