HomeBHKT BÀI HỌC KINH THÁNHBHKT.7.Thơ Tín đến Khải H.BHKT.7a.Thơ Tín DàiBH-“Sự Đa Dạng Của Các Ân Tứ Thuộc Linh” -1Côr. 12:8-11
Sự đa dạng của các ân tứ thuộc linh – Phần 1 – (Loạt bài:I CÔRINHTÔ – HỘI THÁNH GẶP RẮC RỐI)
I Côrinhtô 12.8-11
Đoàn Phan Danh soạn dịch
Khi chúng ta tiếp tục phần nghiên cứu theo từng câu một sách I Côrinhtô, chúng ta thấy lẽ đạo chính trong các chương 12-14, là lẽ đạo nói tới các ân tứ thuộc linh. Những ân tứ thuộc linh là sự Đức Chúa Trời ban cho để được sử dụng trong chức vụ. Mỗi tín đồ nhận lãnh các ân tứ thuộc linh khi họ được cứu và được Đức Thánh Linh ngự vào lòng. Bạn đang có những ân tứ thuộc linh và ý muốn của Đức Chúa Trời dành cho đời sống bạn, ấy là bạn phải sử dụng chúng trong sự hầu việc Ngài.
Hội Thánh Côrinhtô đã vặn vẹo sự dạy nói về các ân tứ thuộc linh. Họ đã mượn từ các nghi thức loạn tâm thần của các “tôn giáo mầu nhiệm” trong xã hội của họ đến mức độ có người tự xưng là đang nói bởi Thánh Linh”, lại thậm chí gọi Chúa Jêsus là đáng bị rủa sả nữa. Vì tri thức của họ về các ân tứ thuộc linh đã bị bóp méo như thế, nên Phaolô viết để chỉnh sửa họ lại.
Đối với Hội Thánh hiện đại, có lẽ không một lãnh vực nào trong sự dạy của Kinh Thánh đã bị hiểu sai và áp dụng không đúng rất nhiều hoặc quan trọng cho tính hiệu quả của Hội Thánh cho bằng các ân tứ thuộc linh. Đức Thánh Linh đã ban ơn cho mỗi tín đồ vì hai lý do rất quan trọng: sự GÂY DỰNG cho Hội Thánh và TRUYỀN GIÁO cho thế gian. Ngược lại, khi chúng ta thất bại không sử dụng các sự ban cho thuộc linh của mình, Hội Thánh sẽ mất đi quyền phép, sự hiệp một, và tình trạng hiệu quả.
Từ ngữ Hy lạp nói tới các ân tứcharisma và cơ bản có ý nói “một sự ban cho của ân điển” hay một “ơn rời rộng”. Các ân tứ thuộc linh không phải là những ta-lâng đâu, chúng đến sau khi được cứu như một kết quả của ơn cứu rỗi. Hai danh sách chính các ân tứ thuộc linh được thấy ở đây trong các câu 8-10, 28 và ở Rôma 12.6-8. Hai bảng danh sách nầy không đồng nhất và không linh động. Dường như chúng cung ứng cho chúng ta phạm trù tổng quát về các ân tứ. Có hai phạm trù chính của các ân tứ. Có những ân tứ chức vụ THƯỜNG TRỰC. Những ân tứ nầy đang phát triển liên tục và được phân phối trong hội chúng của chúng ta ngày nay: nói tiên tri, tri thức, khôn ngoan, dạy dỗ, khuyên bảo, lãnh đạo, bố thí, thương xót, đức tin và sự phân biện. Cũng có các ân tứ dấu hiệu TẠM THỜI. Rất sớm sủa trong sinh hoạt của Hội Thánh, các ân tứ nầy đã được ban ra cho một số người để xác nhận lẽ thật của hàng sứ đồ. Đến gần cuối thế kỷ đầu tiên khi Tân Ước được hoàn tất, chúng thôi không còn có nữa.
Các câu 4-7 cho chúng ta biết có những sự khác nhau hay sự đa dạng trong các ân tứ và chúng được sử dụng trong nhiều chức vụ khác nhau. Giống như có nhiều ân tứ, có nhiều cách thức các ân tứ nầy được sử dụng. Một người với ân tứ dạy dỗ có thể dạy thiếu nhi, thanh niên, tráng niên hoặc có thể được sử dụng trong sự dạy dỗ cho toàn bộ hội chúng. Trong bất cứ phương thức nào chúng được sử dụng, các ân tứ thuộc linh rất cần cho sự gây dựng nhiều người khác chớ không phải cho riêng mình.
Câu 6 chép có nhiều việc làm khác nhau. Từ ngữ nầy ra từ chữ energema. Đức Thánh Linh mặc lấy quyền phép cho các ân tứ của Ngài. Giống như bóng đèn tròn thì vô dụng khi không có điện, các ân tứ thuộc linh của chúng ta không có hiệu quả nếu chúng ta không bước đi trong năng lực Thánh Linh của Chúa. Câu 7 nhắc cho chúng ta nhớ rằng mặc dù có nhiều ân tứ và nhiều chức dịch, ấy làvì ích cho mọi người. Các ân tứ của chúng ta đã được ban cho chúng ta, nhưng chúng không phải là vì chúng ta đâu. Chúng cần phải được sử dụng trong sự phục vụ lẫn nhau.
Khi chúng ta tiếp cận danh sách các ân tứ nầy ở các câu 8-11, chúng ta sẽ xem xét từng ân tứ một theo cách riêng.
I. Ân tứ lời nói khôn ngoan (câu 8a).
Lời nói khôn ngoan là một từ ngữ rất rộng rãi. Trong kỷ nguyên Tân Ước, từ ngữ nầy chủ yếu đề cập tới khả năng nói trực tiếp Lời chưa thành văn của Đức Chúa Trời giống như các tiên tri trong Cựu Ước. Tuy nhiên, theo ý nghĩa cơ bản nhất, cách duy nhứt ân tứ nầy được ban ra hôm nay nhằm vào khả năng áp dụng những gì đã có sẵn – Lời Đức Chúa Trời đã được tỏ ra rồi.
Lời ra từ chữ logos. Từ nầy có nghĩa là “lời đã được thốt ra” hay Ngôi Lời đã được phán ra. Trong Giăng 1, Chúa Jêsus được gọi là Ngôi Lời. Chúa Jêsus đúng là tiếng của Đức Chúa Trời phán cùng loài người. Khôn ngoan ra từ chữ phổ thông sophia. Triết lý nói “yêu sự khôn ngoan” đến từ chữ nầy đây. Trong các phân đoạn Kinh Thánh, từ nầy đề cập tới sự khôn ngoan thật, sự khôn ngoan đến từ Đức Chúa Trời. Giacơ 1.5 chép: “Ví bằng trong anh em có kẻ kém khôn ngoan, hãy cầu xin Đức Chúa Trời, là Đấng ban cho mọi người cách rộng rãi, không trách móc ai, thì kẻ ấy sẽ được ban cho”. Sự khôn ngoan thuộc linh là khả năng biết chắc và áp dụng ý muốn của Đức Chúa Trời.
Ân tứ thuộc linh lời nói khôn ngoan có thể được hiểu là khả năng Đức Chúa Trời ban cho để chuyển lẽ thật vào ứng dụng thực hành. Ân tứ thuộc linh nầy có phần ứng dụng quan trọng trong Hội Thánh. Đây là ân tứ nền tảng cho nhà truyền đạo nào muốn bắt nhịp cầu giữa Lời Đức Chúa Trời và dân sự của Đức Chúa Trời. Phân phát thông tin về Kinh Thánh cũng chưa phải là đủ; chúng ta cần phải biết cách áp dụng Kinh Thánh vào đời sống hàng ngày của chúng ta. Bạn từng có nan đề và bạn cần mưu ý hay chăng? Bạn đến gặp ai nào?
Có đúng người chưa? Mưu luận xấu thì tệ hại hơn là chẳng có mưu luận gì hết. Trong trường hợp đó, bạn cần một tín hữu với ân tứ khôn ngoan nầy. Người ấy có thể dẫn dắt bạn trong việc đưa ra những quyết định đúng đắn. Cũng vậy, ân tứ khôn ngoan rất là quan trọng cho bất kỳ ai tư vấn cho người khác. Giống như phần còn lại của các ân tứ thuộc linh, ân tứ nầy đến từ Đức Thánh Linh. Ngài truyền đạt và mặc lấy quyền phép cho ân tứ nầy cho bất cứ ai mà Ngài muốn. Bạn có thể đến gặp một nhà cố vấn đầu tư và ông ta sẽ cung ứng cho bạn phần phân tích thị trường và nơi bạn sẽ đặt tiền bạc vào. Bạn có thể đến với nhà tư vấn về trường học và cô ấy sẽ cung ứng cho bạn lời khuyên tốt về các lớp học mà bạn nên tham dự vào. Bạn có thể viết “Abby thân mến” về sinh hoạt tình cảm của bạn, nhưng nếu bạn muốn có tư vấn tin kính trổi hơn sự khôn ngoan đời nầy, bạn cần ai đó với ân tứ lời nói khôn ngoan.
II. Ân tứ lời nói có tri thức (câu 8b).
Lời nói có tri thức cũng là một câu nói rất rộng rãi. Về mặt luận lý, câu nầy đáng phải được đặt trước lời nói khôn ngoan vì bất cứ sự khôn ngoan thật nào đều đến từ sự hiểu biết Lời của Đức Chúa Trời. Phải có tri thức trước khi có sự khôn ngoan. Trong kỷ nguyên sứ đồ, cần phải nói rằng Đức Chúa Trời đang truyền đạt tri thức theo cách siêu nhiên.
Trong Hội Thánh đầu tiên, chẳng có phần Tân Ước nào được cảm thúc hết. Kinh Thánh uy nhứt họ đã có là Cựu Ước. Những tín đồ ấy đã nghiên cứu Cựu Ước, nhưng họ cần thông tin về Tân Ước. Đức Chúa Trời đã sử dụng lời nói tri thức nầy đôi lúc để phán trực tiếp về những nhu cần của một hội chúng. Chắc chắn Phaolô và các trước giả viết Kinh Thánh đã có lời nói tri thức khi họ viết ra những sách Tân Ước. Phillips viết: Ân tứ nầy đặc biệt có cần trong những ngày đầu của Hội Thánh. Lẽ thật được viết ra cho người thành Têsalônica, trong trường hợp có cần cho một Hội Thánh tại thành Galati. Người nào với ân tứ lời nói khôn ngoan sẽ được thúc giục để tỏ ra lẽ thật và người nào với ân tứ tri thức sẽ có khả năng diễn giải lẽ thật đó … Đức Thánh Linh, Ngài biết rõ chính xác, từng câu nói và tuyệt đối, đúng những gì chắc chắn phải có trong Tân Ước, cung ứng lời nói khôn ngoan và lời nói tri thức đó đây trong các Hội Thánh địa phương theo như hoàn cảnh đòi hỏi.
Tuy nhiên, ngày nay ân tứ nầy đang tác động rất khác biệt. Chúng ta không còn cần tri thức mới từ Đức Chúa Trời nữa. Lẽ thật của Ngài đã được tỏ ra đầy đủ cho chúng ta trong Kinh Thánh trọn bộ rồi. II Phierơ 1.3 chép: “Quyền phép Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta mọi điều thuộc về sự sống và sự tin kính, khiến chúng ta biết Đấng lấy vinh hiển và nhân đức mà gọi chúng ta”. Chúng ta không cần một sự khải thị nào mới nữa. Thực thế, Giuđe 3 chép: “…tôi đã ân cần viết cho anh em về sự cứu rỗi chung của chúng ta, tôi tưởng phải làm điều đó, để khuyên anh em vì đạo mà tranh chiến, là đạo đã truyền cho các thánh một lần đủ rồi”. Đức tin đã được phân phối cho chúng ta để sử dụng một lần đủ cả. Chúng ta có mọi sự Đức Chúa Trời muốn chúng ta phải biết trong Kinh Thánh trọn bộ.
Vì vậy, ngày nay nếu lời nói khôn ngoan đề cập tới khả năng để áp dụng Kinh Thánh, lời nói tri thức là khả năng để hiểu biết Kinh Thánh, để khám phá ý nghĩa đầy đủ của một phân đoạn rồi giải thích theo một phương thức mà nhiều người có thể hiểu được. Có phải bạn từng bối rối về một phân đoạn Kinh Thánh hay một lãnh vực giáo lý khá gai góc và rồi chẳng có ai giải thích phân đoạn ấy cho bạn và làm sáng tỏ ý tưởng không? Đấy là tác động phụ của ân tứ thuộc linh nầy.
Một lần nữa, đây là ân tứ nền tảng dành cho nhà truyền đạo và giáo sư dạy Ngôi Lời. Người phải có khả năng được Đức Thánh Linh mặc lấy quyền phép cho để khiến những sự dạy của Kinh Thánh ra rõ ràng cho nhiều người khác. Ân tứ nầy giống như các ân tứ khác đã được ban ra ở nhiều cấp độ khác nhau. Tôi thường nghe và đọc theo những giáo sư dạy Kinh Thánh, họ đã tốt nghiệp rất cao trong bộ môn thần học, những thuật ngữ của Kinh Thánh, lịch sử, triết lý và xã hội học. Đức Chúa Trời sử dụng tri thức của họ để giúp cho tôi hiểu rõ các phân đoạn Kinh Thánh nhất định nào đó.
Tuy nhiên, tôi cũng đã lắng nghe nhiều người với ít hay chẳng có đào tạo nào theo hình thức, những người nầy về mặt cơ bản đã tự học. Tuy nhiên, khi họ dạy Lời của Đức Chúa Trời, tôi học hỏi nhiều từ họ cũng như những người có học vấn cao kia. Chắc chắn chẳng có gì sai với học vấn cao, nhưng khi phải đến với sự dạy Kinh Thánh, đây là một ân tứ chớ không phải một trình độ mới kiếm được đâu. Khi tôi khởi sự học đại học, tôi muốn mình sẽ trở thành một nhạc sĩ. Tôi nghĩ tôi có thể hầu việc Đức Chúa Trời bằng cách hướng dẫn các buổi thờ phượng, điều khiển ca đoàn và viết nhạc thánh ca. Tôi nắm lấy nhạc lý, điều khiển ca đoàn và những công việc có quan hệ khác. Tuy nhiên, tôi tìm được những điều tôi đáng tận hưởng nhất là Kinh Thánh và các lớp thần học. Qua sự cầu nguyện và thử nghiệm, tôi bắt đầu hiểu ra rằng Đức Chúa Trời đã ban ơn cho tôi để giảng dạy. Đây là một ân tứ mà tôi phải khám phá. Tất nhiên, tôi đã học hỏi, tiếp thu và thực hành bất cứ khi nào và với bất cứ người nào khả thi, nhưng có một nhận thức trong đó tôi không được truyền cho phải giảng dạy, mà được ơn để giảng dạy. Một số người trong quí vị có các ân tứ thuộc linh mà quí vị chưa khám phá ra. Quí vị cần phải bận bịu trong công tác hầu việc Chúa ở bất cứ đâu và khắp mọi nơi. Khi bạn bắt tay vào việc, bạn sẽ thấy mình có những ân tứ mà bạn chưa biết biết hết.
III. Ân tứ đức tin (câu 9a).
Đức tin là một đòi hỏi để được cứu. Hết thảy chúng ta đều có đức tin nơi những việc tầm thường: một cái ghế được giữ đứng thẳng, đồ ăn trên đĩa sẽ không làm tổn thương cho chúng ta hoặc ngân hàng sẽ không cướp lấy tiền bạc của chúng ta. Tuy nhiên, đức tin cứu rỗi là một loại đức tin còn nhiều hơn mà chúng ta không thể gợi lên từ linh hồn tội lỗi, băng hoại của chúng ta. Êphêsô 2.8 chép: “Vả, ấy là nhờ ân điển, bởi đức tin, mà anh em được cứu, điều đó không phải đến từ anh em, bèn là sự ban cho của Đức Chúa Trời”. Đức tin để được cứu đến với chúng ta là sự ban cho của Đức Chúa Trời. Đức tin siêu nhiên nầy cũng bị đòi hỏi để sống cuộc sống Cơ đốc, bằng không chúng ta sẽ bị nghi ngờ và thất vọng chiếm hữu.
Tuy nhiên, ân tứ thuộc linh đức tin không phải là đức tin cứu rỗi hay đức tin mà mọi Cơ đốc nhân thực đang xưng ra. Thay vì thế, đức tin ấy dường như là một khả năng mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn, biết nương cậy vào Đức Chúa Trời giữa những hoàn cảnh nghiệt ngã và các tình huống bất khả thi. Một tín đồ với ân tứ thuộc linh đức tin, qua sự cầu nguyện tin cậy Đức Chúa Trời làm phép lạ dấu kỳ, mà những người khác thì không đạt tới mức độ đó. Jesus phán trong Mathiơ 17.20: “…Ngài đáp rằng:… nếu các ngươi có đức tin bằng một hột cải, sẽ khiến núi nầy rằng: Hãy dời đây qua đó, thì nó liền dời qua, và không có sự gì mà các ngươi chẳng làm được”.
Trong I Côrinhtô 13.2, Phaolô sánh đức tin với tình yêu thương: “…dầu tôi có cả đức tin đến nỗi dời núi được, nhưng không có tình yêu thương, thì tôi chẳng ra gì”. Ông không nói đức tin không quan trọng, mà đức tin ấy phải được tình yêu thương ca ngợi. Hãy chú ý ở đây ông đề cập tới các cấp độ của đức tin bằng cách nói một người phải có cả đức tin. Những tín đồ với ân tứ đức tin thì rất mạnh mẽ trong sự cầu nguyện. Giacơ 5.14-18 chép: “Trong anh em có ai đau ốm chăng? hãy mời các trưởng lão Hội thánh đến, sau khi nhân danh Chúa xức dầu cho người bịnh đoạn, thì các trưởng lão hãy cầu nguyện cho người. Sự cầu nguyện bởi đức tin sẽ cứu kẻ bịnh, Chúa sẽ đỡ kẻ ấy dậy; nếu kẻ bịnh có phạm tội, cũng sẽ được tha. Vậy, hãy xưng tội cùng nhau, và cầu nguyện cho nhau, hầu cho anh em được lành bịnh: người công bình lấy lòng sốt sắng cầu nguyện, thật có linh nghiệm nhiều. Ê-li vốn là người yếu đuối như chúng ta. Người cầu nguyện, cố xin cho đừng mưa, thì không mưa xuống đất trong ba năm rưỡi. Đoạn, người cầu nguyện lại, trời bèn mưa, và đất sanh sản hoa màu”.
Sự luyện tập ân tứ đức tin nầy sẽ gây dựng đức tin nơi nhiều người khác và đem lại sự trông cậy và yên ủi. Thí dụ, khi Phaolô bị lọt vào cơn bão biển ghê khiếp trên đường đến Rôma, ông nói với những kẻ cùng đi tàu với mình: “Hỡi bạn hữu ta, chớ chi bữa trước tin lời ta mà chẳng dời khỏi đảo Cơ-rết, thì chúng ta đã chẳng mắc cơn nguy hiểm và tổn hại nầy. Nhưng bây giờ, ta khuyên các ngươi hãy vững lòng; trong các ngươi chẳng mất ai hết, chỉ mất chiếc tàu mà thôi. Vì đêm nay, một thiên sứ của Đức Chúa Trời, là Đấng ta thuộc về và hầu việc, có hiện đến cùng ta mà phán rằng: Hỡi Phao-lô, đừng sợ chi hết; ngươi phải ứng hầu trước mặt Sê-sa; và nầy, Đức Chúa Trời đã ban cho ngươi hết thảy những kẻ cùng đi biển với ngươi. Vậy, hỡi các ông, hãy vững lòng, vì ta có lòng tin cậy Đức Chúa Trời rằng sẽ xảy ra như lời Ngài đã phán vậy” (Công Vụ các Sứ đồ 27.21-15).
Những người tuận đạo trong Hội Thánh đầu tiên đã làm chứng cho đức tin của họ thậm chí khi phải chịu chết. Kết quả là, có nhiều người đã dạn dĩ trong việc chia sẻ Tin Lành. Phaolô đã viết cho người thành Philíp trong lần bị tù đầu tiên như sau: “Tôi có lòng trông cậy chắc chắn nầy, việc chi tôi cũng chẳng hổ thẹn cả, nhưng bao giờ cũng thế, tôi nói cách tự do mọi bề, như vậy, dầu tôi sống hay chết, Đấng Christ sẽ được cả sáng trong mình tôi. Vì Đấng Christ là sự sống của tôi, và sự chết là điều ích lợi cho tôi vậy” (Philíp 1.20-21).
Các vị giáo sĩ tiền phong như Hudson Taylor ở Trung Hoa lục địa hay William Carey ở Ấn độ đã dùng đời sống mình rao truyền Tin Lành với ít hay chẳng có sự tiếp trợ nào cả. Đức tin của họ, đã tỏ ra trong những tác phẩm họ viết vẫn còn cảm thúc chúng ta ngày nay. Vô số các giáo sĩ đã lao động miệt mài và khó nhọc trong một số công trường, nơi đó có rất ít đáp ứng với Tin Lành. Điều chi khiến cho họ cứ ở lại đó? Chỉ có thể là ân tứ thuộc linh: đức tin phi thường.
Đời sống của George Mueller trụ vững như một bằng chứng của đức tin. Mặc dù ông không hề xưng mình có ân tứ thuộc linh, chắc chắn ông đã luyện tập ân tứ ấy khi ông chăm sóc cho hàng trăm trẻ mồ côi ở Bristol, Anh quốc. Mueller cho biết ở những thời điểm khác nhau, không những lúc bắt đầu công việc, mà còn trong nhiều năm sau nữa, Đức Chúa Trời đã thấy thích ứng khi thử đức tin ông đến mức tối đa, nhưng chỉ để chứng minh cho ông thấy cách quả quyết rằng Ngài sẽ chẳng khác gì hơn là Đức Chúa Trời của ông, Ngài là thành tín luôn giữ giao ước. Với phần minh họa ông đề cập đến một thời điểm khi, những đứa trẻ chỉ còn có bữa ăn sau cùng trong ngày, chẳng có gì còn lại bằng tiền bạc hay loại điểm tâm gì cho sáng hôm sau. Ông Mueller trở về nhà, nhưng chẳng có gì gửi đến hết, và ông đã nghỉ ngơi suốt đêm, phó thác nhu cần xin Đức Chúa Trời tiếp trợ cho. Sáng sớm hôm sau, ông đi bách bộ, và trong khi cầu nguyện xin giúp đỡ cho nhu cần, ông bước sang một con đường mà ông hoàn toàn không để ý, và sau khi đi bộ một khoảng ngắn, có người bạn đón gặp ông, và nói ông ta rất hân hạnh được gặp ông, rồi xin ông nhận cho £5 cho các trẻ mồ côi. Ông cảm ơn ông ấy, rồi không nói một lời với người dâng hiến về thời điểm của nhu cần, ngay lập tức ông đi thẳng đến viện mồ côi, ngợi khen Đức Chúa Trời vì câu trả lời trực tiếp nầy cho sự cầu nguyện.
Ở một dịp khác, khi chẳng có ngân quỹ trong tay để cung ứng bữa điểm tâm cho những trẻ mồ côi, một quí ông gọi đến trước giờ ăn sáng rồi để lại một số tiền dâng hiến cung ứng mọi nhu cần trong hiện tại của chúng. Khi báo cáo trong năm được phát ra, minh chứng nầy được ghi lại về sự thành tín của Đức Chúa Trời khi gửi tiếp trợ đúng lúc khi có cần, và một thời gian ngắn sau người dâng hiến kia được mời đến và trình bày cho ông ta biết, sự dâng hiến của ông ấy đã được trao vào một thời điểm đặc biệt có cần, ông ấy cảm thấy ông ấy phải nói ra những hoàn cảnh mà tùy theo đó ông ấy đã dâng hiến số tiền.
Ông ấy có dịp đến văn phòng của mình tại Bristol sáng sớm hôm đó trước bữa điểm tâm, và trên đường đi tư tưởng nầy thoạt đến với ông: Ta phải đến viện mồ côi của Ông Mueller và dâng cho họ một của lễ lạc hiến, và ông quay lại đi một khoảng ngắn chừng một phần tư dặm hướng về viện mồ côi, khi ông dừng lại, tự nhũ thầm: Mình dại quá, sao lại trễ nãi công việc mà mình tính làm! Mình có thể trao số tiền cho viện mồ côi vào dịp khác mà”. Ông ta bèn quay lại rồi đi ngược về hướng văn phòng của mình, nhưng rồi lại cảm thấy phải quay trở lại. Ông ta nhũ thầm rằng: Những đứa trẻ mồ côi sẽ cần tới số tiền ngay bây giờ. Mình phải trao số tiền khi Đức Chúa Trời sai mình đến để giúp chúng”. Ấn tượng nầy mạnh đến nỗi ông ta quay trở lại rồi đi theo hướng ngược lại cho tới khi ông ta đến viện mồ côi, rồi trao số tiền tiếp trợ cho chúng với bữa điểm tâm. Lời bình của Mueller về cớ sự nầy như sau: Đúng là Cha thiên thượng giàu ơn của tôi! và khi ấy ông đã giục giã những khán thính giả của mình nên tin cậy và minh chứng Ngài là Đức Chúa Trời thành tín hay giữ giao ước với những ai biết đặt lòng trông cậy của họ nơi Ngài.
Có phải bạn đang có ân tứ đức tin đó chăng? Có phải bạn đã nhìn thấy Đức Chúa Trời trả lời cho sự cầu nguyện của bạn nghịch lại với mọi sự bàn tán không? Có phải bạn tin Đức Chúa Trời sẽ tiếp trợ cho khi người khác nghi ngờ không. Có thể bạn nhìn thấy một sự mặc khải về tương lai, mà nhiều người khác thì không thấy chăng? Vậy, hãy cầu nguyện đi! Hãy trông đợi Đức Chúa Trời trả lời cho những lời cầu nguyện của bạn và hãy sử dụng ân tứ của bạn để khích lệ nhiều người khác! Ồ, thể nào một số tôi tớ của Đức Chúa Trời đang chịu khó làm việc cần được khích lệ cách liên tục bởi sự làm chứng của bạn về đức tin! Hãy luyện tập ân tứ của bạn!
IV. Ân tứ chữa tật bịnh (câu 9b).
Câu 9 chép: “cũng bởi một Đức Thánh Linh ấy, cho kẻ kia được ơn chữa tật bịnh”. Đừng quên số nhiều củaơn chữa tật bịnh cho thấy rằng một số ơn có thể chữa lành nhiều nan đề và một số ơn chữa lành nhiều nan đề khác. Đã có sự đa dạng trong khả năng chữa lành. Tôi tin rằng khả năng chữa lành là một ân tứ dấu hiệu tạm thời. Khi chúng ta thấy những lần chữa lành trong Kinh Thánh, chúng hầu như luôn luôn có mục đích xác định hay quy thẩm quyền cho sứ điệp Tin Lành.
Chúa Jêsus đã chữa lành vì mục đích tỏ ra lai lịch của Ngài. Mathiơ 8.16-17 chép: “Đến chiều, người ta đem cho Đức Chúa Jêsus nhiều kẻ bị quỉ ám, Ngài lấy lời nói mà đuổi quỉ ra; cũng chữa được hết thảy những người bịnh, vậy cho được ứng nghiệm lời của Đấng tiên tri Ê-sai đã nói rằng: Chính Ngài đã lấy tật nguyền của chúng ta, và gánh bịnh hoạn của chúng ta”. Các vị sứ đồ đã được ban cho ơn chữa tật bịnh. Mathiơ 10.1 chép: “Đức Chúa Jêsus gọi mười hai môn đồ đến, ban quyền phép trừ tà ma, và chữa các thứ tật bịnh”.
Bảy mươi môn đồ được Chúa Jêsus sai đi, họ được trao cho khả năng chữa lành bịnh tật. Luca 10.1 chép: “Kế đó, Chúa chọn bảy mươi môn đồ khác, sai từng đôi đi trước Ngài, đến các thành các chỗ mà chính Ngài sẽ đi”. Ở câu 9 Ngài phán với họ: “Hãy chữa kẻ bịnh ở đó, và nói với họ rằng: Nước Đức Chúa Trời đến gần các ngươi”.
Một số lãnh đạo trong Hội Thánh đầu tiên cũng có ân tứ nầy như trong trường hợp của Philíp. Công Vụ các Sứ đồ 8.5-7 chép: “Phi-líp cũng vậy, xuống trong thành Sa-ma-ri mà giảng về Đấng Christ tại đó. Đoàn dân nghe người giảng và thấy các phép lạ người làm, thì đồng lòng lắng tai nghe người nói; vì có những tà ma kêu lớn tiếng lên mà ra khỏi nhiều kẻ bị ám, cùng kẻ bại và què được chữa lành cũng nhiều”.
Sứ đồ Phaolô đã có ơn chữa lành. Trong Công Vụ các Sứ đồ 14.8-10, chúng ta đọc thấy ông chữa lành cho người què tại Lít-trơ và dân chúng tìm cách xưng ông và Banaba là thần linh. Trong Công Vụ các Sứ đồ 16, ông đuổi quỉ (hồn ma) ra khỏi một cô gái nô lệ. Công Vụ các Sứ đồ 19.11-12 chép: “Đức Chúa Trời lại dùng tay Phao-lô làm các phép lạ khác thường, đến nỗi người ta lấy khăn và áo đã bận vào mình người mà để trên các kẻ đau yếu; thì họ được lành bịnh, và được cứu khỏi quỉ dữ”.
Trong Công Vụ các Sứ đồ 20, ông đã làm cho Ơ-tích sống lại từ kẻ chết sau khi anh ta ngủ gục trong nhà hội và té ngã từ cửa sổ tầng thứ ba. Một con rắn độc từng cắn Phaolô và ai nấy đều trông mong ông sẽ chết (Công Vụ các Sứ đồ 28.3-6). Ngay cả hạng người như Phaolô, rõ ràng ông đã có được ơn nầy, đã sử dụng ơn ấy cách đơn sơ. Ông thường đau ốm và chịu khổ từ những lần bị đánh đòn và ngược đãi. Ông có thị lực rất yếu và nhiều điều bất khả khác. Tuy nhiên, ông không hề chữa cho bản thân mình hoặc yêu cầu ai khác làm việc đó.
Bạn của Phaolô là Ép-ba-phô-đích đã đau bịnh nặng lắm và sẽ ngã chết nếu như Đức Chúa Trời không can thiệp. Ông viết ở Philíp 2.27: “Vả, người mắc bịnh gần chết; nhưng Đức Chúa Trời đã thương xót người, và chẳng những người mà thôi, cả đến tôi nữa, đặng tôi khỏi buồn rầu càng thêm buồn rầu”. Khi Timôthê đau bịnh với những rắc rối của bao tử, Phaolô không khuyên Timôthê tìm kiếm ai đó với ơn chữa tật bịnh mà nói trong I Timôthê 5.23: “Đừng chỉ uống nước luôn; nhưng phải uống một ít rượu, vì cớ tì vị con, và con hay khó ở”. Người bạn khác của Phaolô là Trôphim không được Phaolô chữa lành mà để lại thành Milê (II Timôthê 4.20).
Vì lẽ ấy, chúng ta phải kết luận rằng Phaolô chỉ có thể sử dụng ơn chữa tật bịnh của ông trong các trường hợp đặc biệt để củng cố sứ điệp của mình mà thôi, không phải chỉ làm nhẹ bớt nổi đau hay kéo sự chú ý vào bản thân ông hoặc chức vụ của ông. Giống như Phaolô, nhiều người khác đã sở hữu ơn nầy chắc chắn có lòng thương xót đối với những kẻ đau khổ, mà mục đích chính cho sự chữa lành là xác định thẩm quyền của sứ điệp và sứ điệp đã được rao giảng ra.
Một lần nữa, không có phần Kinh Thánh nào là bất toàn và đã có nhiều tiên tri giả. Những thứ ơn dấu hiệu nầy đã minh chứng sứ điệp mà các vị sứ đồ và những người khác rao giảng quả thực đến từ Đức Chúa Trời. Khi Nicôđem nói với Chúa Jêsus trong Giăng 3.2: “…Thưa thầy, chúng tôi biết thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến; vì những phép lạ thầy đã làm đó, nếu Đức Chúa Trời chẳng ở cùng, thì không ai làm được”. Ngày nay, chúng ta không cần đến các ân tứ dấu hiệu nữa. Nếu bạn muốn biết những gì tôi giảng có thật hay không, bạn có thể mở quyển Kinh Thánh của mình ra để mà nghiên cứu. Đại Mạng Lịnh buộc chúng ta không phải để chữa lành kẻ đau, mà phải môn đồ hóa, làm phép báp têm và dạy dỗ cho họ.
Cho dùơn chữa tật bịnh dường như ngày nay không còn năng động, Đức Chúa Trời vẫn chữa lành. Qua thời gian, Tân Ước gần như là trọn vẹn rồi, Giacơ viết: “Trong anh em có ai đau ốm chăng? hãy mời các trưởng lão Hội thánh đến, sau khi nhân danh Chúa xức dầu cho người bịnh đoạn, thì các trưởng lão hãy cầu nguyện cho người” (Giacơ 5.14). Chúng ta có làm điều nầy hay không? Phải, khi chúng ta được yêu cầu. Có phải người ta được chữa lành không? Phải, dường như có người được chữa lành. Có phải tôi và các trưởng lão khác có ơn chữa tật bịnh không? Tuyệt đối không. Không một ai ngày hôm nay chữa lành giống như Chúa Jêsus hay các sứ đồ đã chữa lành. Hầu hết những kẻ được gọi là “những người chữa lành theo đức tin” thời nay rất giống với những tay đấu vật “chuyên nghiệp” hơn là chức vụ chữa lành được mô tả trong Tân Ước.
Chúng ta có mỗi quyền hạn tự ném mình vào ơn thương xót của Đức Chúa Trời và cầu xin Ngài chữa lành cho chúng ta bất kỳ thương tích hay bịnh tật nào. Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng Đức Chúa Trời đã ban cho chúng ta không một lời hứa nào trống không để chữa lành cho bất kỳ ai. Chúng ta hãy kết thúc theo cách nầy: Một số trong quí vị có những thứ ơn mà chúng ta đã học hỏi hôm nay. Một số trong quí vị có ân tứ lời nói khôn ngoan, một số có ân tứ tri thức và một số có ân tứ đức tin. Chúng ta hãy sử dụng các ân tứ ấy cách rời rộng “để ai nấy đều được sự ích chung”.
+++++++++++++++++
“Sự hiệp một và tính đa dạng của các ân tứ thuộc linh” – (Phần 2)
I Côrinhtô 12.12-19
Trong mấy tuần qua, phần nghiên cứu của chúng ta trong sách I Côrinhtô đã nhắm vào các ân tứ thuộc linh. Trong phân đoạn Kinh Thánh ngày hôm nay, sứ đồ Phaolô phác họa cho thấy các ân tứ hoạt động như thế nào trong Hội Thánh! Tuy nhiên, trước khi chúng ta đào sâu vào các câu nầy, chúng ta hãy để ra vài phút để sắp đặt nội dung. Các ân tứ thuộc linh là những khả năng thiêng liêng cho chức dịch. Chúng không phải là những ta-lâng tự nhiên. Chúng ta nhận lãnh các ân tứ thuộc linh của chúng ta sau khi được cứu như một kết quả của ơn cứu rỗi. Có hai bảng danh sách chính các ân tứ thuộc linh. Một được thấy ở đây I Côrinhtô 12 trong các câu 8-10; 28 và danh sách kia ở Rôma 12.6-8. Trong hai bảng danh sách nầy là hai loại ân tứ:
Các ân tứ cho chức vụ thường trực: Các ân tứ nầy gồm có: nói tiên tri, tri thức, khôn ngoan, dạy dỗ, khuyên bảo, lãnh đạo, cứu giúp, bố thí, thương xót, đức tin và sự phân biệt.
Các ân tứ dấu hiệu tạm thời: Các ân tứ nầy đã được ban cho một số người trong Hội Thánh đầu tiên để củng cố sứ điệp của hàng sứ đồ trước khi Kinh Thánh được hoàn tất.
Ở các câu 8-10, chúng ta đã xem xét chín ân tứ đặc biệt:
• ÂN TỨ KHÔN NGOAN (câu 8a). Về cơ bản, ân tứ nầy có nghĩa là “nói năng khôn ngoan”. Phương thức duy nhứt ân tứ nầy được ban ra hôm nay là khả năng áp dụng Lời thành văn của Đức Chúa Trời.
• ÂN TỨ TRI THỨC (câu 8b). Vì chẳng có một khải thị nào mới hết. Phương thức trong đó ân tứ nầy được ban cho là khả năng khám phá ra ý nghĩa đầy đủ của một phân đoạn Kinh Thánh rồi giải thích phân đoạn ấy để người khác nắm bắt được những sự dạy của nó.
• ÂN TỨ ĐỨC TIN (câu 9a). Mặc dù muốn được cứu và muốn hầu việc Đức Chúa Trời thì phải qua đức tin, ân tứ nầy đề cập tới một khả năng tin cậy nơi Đức Chúa Trời mạnh mẽ hơn, giữa vòng những hoàn cảnh khó khăn. Một người với ân tứ nầy rất mạnh mẽ trong sự cầu nguyện.
• CÁC ÂN TỨ CHỮA LÀNH (câu 9b). Khả năng chữa lành là một ân tứ dấu hiệu tạm thời. Ngược lại với dư luận chung, người nào với ân tứ nầy sẽ không chữa lành cho ai vào bất cứ thời điểm nào. Rõ ràng Phaolô đã có ân tứ nầy, nhưng chỉ được sử dụng để khẳng định địa vị sứ đồ của ông mà thôi.
• ÂN TỨ PHÉP LẠ (câu 10a). Đây cũng là một ân tứ dấu hiệu tạm thời. Các phép lạ của Chúa Jêsus đều là một dấu giúp nhận dạng Ngài là Đấng Mêsi cho dân Israel. Các vị sứ đồ và các cấp lãnh đạo Hội Thánh khác đã khẳng định Tin Lành với nhiều phép lạ. Tuy nhiên, hầu hết người nào đã sống kỷ nguyên Kinh Thánh chưa hề nhìn thấy một phép lạ. Đức Chúa Trời dường như đã đổ ra nhiều dấu lạ sự kỳ chỉ khi Ngài đã tỏ ra lẽ thật mới mẻ cho con người.
• ÂN TỨ NÓI TIÊN TRI (câu 10b). Nói tiên tri không phải luôn luôn là cho biết trước. Sát nghĩa ân tứ nầy có ý nói “nói trước” và có thể mang ý nghĩa loan báo trước nữa. Một người với ân tứ nói tiên tri là người về mặt thuộc linh được Đức Chúa Trời ban ơn cho để nói ra Lời của Ngài trước mặt nhiều người khác kèm theo quyền phép và sự say mê.
• ÂN TỨ PHÂN BIỆT (câu 10c). Ân tứ nầy đề cập tới khả năng biết chắc về mặt thuộc linh điều chi là thật và điều chi là giả.
• ÂN TỨ NÓI NHIỀU THỨ TIẾNG KHÁC (câu 10d). Đây là ân tứ dấu hiệu tạm thời về sự có khả năng giảng Lời của Đức Chúa Trời bằng một thứ tiếng chưa được học tập hay làm chủ được thứ tiếng đó. Nhiều thứ tiếng khác ra từ chữ có nghĩa là “ngôn ngữ”. Chúng ta sẽ xử lý với ân tứ nầy chi tiết hơn ở chương 14.
• ÂN TỨ THÔNG GIẢI (câu 10e). Ân tứ nầy có mặt để giúp cho những ai không biết thứ tiếng đang được nói ra hiểu được tiếng ấy. Ân tứ nầy sẽ được nói nhiều ở chương 14.
Ở câu 11, chúng ta lưu ý sự phân phối các ân tứ thuộc linh. Đức Thánh Linh là nguồn của các ân tứ thuộc linh và Ngài hành động qua tất cả các ân tứ thuộc linh. Chúng ta không phải chọn lấy các ân tứ, mà nhận lãnh ơn nào do Đức Thánh Linh ban cho chúng ta. Bạn sẽ nghĩ như sau: Tôi chẳng có ơn nào trong các thứ ơn nầy. Hãy nhớ rằng bảng danh sách nầy chưa phải là hết đâu. Các ân tứ khác đã được nhắc tới ở câu 28 và cũng ở Rôma 12.6-8. Cũng có thể là bạn đã có những ân tứ mà bạn chưa khám phá ra. Chúng ta khám phá ra các ân tứ của mình khi chúng ta tấn tới trưởng thành trong Đấng Christ và tìm cách hầu việc Ngài qua Hội Thánh địa phương. Trong phân đoạn Kinh Thánh hôm nay, Phaolô chỉ cho chúng ta thấy vì cớ sự cứu rỗi, tất cả các tín đồ đều có sự hiệp một trong Đấng Christ. Tuy nhiên, sự phân phối các ân tứ thuộc linh của chúng ta cung ứng cho chúng ta tính đa dạng.
I. Tất cả tín đồ đều có SỰ HIỆP MỘT trong Đấng Christ (các câu 12-13).
A. MẶC DÙ CHÚNG TA LÀ NHIỀU CHI THỂ, CHÚNG TA LÀ MỘT THÂN (câu 12).
Câu 12 chép: “Vả, như thân là một, mà có nhiều chi thể, và như các chi thể của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi, Đấng Christ khác nào như vậy”. Hãy chú ý phần nhấn mạnh ở chỗ một thân. Cụm từ nầy được nhắc tới ba lần chỉ trong một câu nầy. Một điều luật cơ bản cho sự nghiên cứu Kinh Thánh, ấy là khi một từ hay cụm từ được lặp đi lặp lại, điều nầy rất quan trọng.
Suốt cả Tân Ước, Phaolô sử dụng cơ thể con người như một hình bóng nói tới người được chuộc, gia đình của Đức Chúa Trời hay Hội Thánh theo ý nghĩa phổ quát. Tuy nhiên, các Hội Thánh địa phương cũng là thân thể của Đấng Christ, ở đó họ là những đại biểu địa phương của toàn thể dân sự của Đức Chúa Trời. Hãy xem xét một vài trường hợp. Rôma 12.5 chép: “thì cũng vậy, chúng ta là nhiều người mà hiệp nên một thân trong Đấng Christ, và hết thảy chúng ta đều là các phần chi thể của nhau”. Êphêsô 4.4 chép: “Chỉ có một thân thể, một Thánh Linh, như anh em bởi chức phận mình đã được gọi đến một sự trông cậy mà thôi”. Câu 12 nói tới: “…để các thánh đồ được trọn vẹn về công việc của chức dịch và sự gây dựng thân thể Đấng Christ”. Câu 16 chép: “Ấy nhờ Ngài mà cả thân thể ràng buộc vững bền bởi những cái lắt léo, khiến các phần giao thông với nhau, tùy lượng sức mạnh của từng phần, làm cho thân thể lớn lên, và tự gây dựng trong sự yêu thương”. Côlôse 1.18 chép: “Ấy cũng chính Ngài là đầu của thân thể, tức là đầu Hội thánh. Ngài là ban đầu sanh trước nhất từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng”.
Thân thể con người là một phép ẩn dụ đáng kinh ngạc. Bạn có thể nghĩ được điều chi phức tạp và đa dạng đang hành động với sự hiệp một và hài hòa như thế không? Có nhiều người trên khắp thế giới ở trong các nhà thờ, hệ phái, tổ chức và chức dịch khác nhau, tuy nhiên hết thảy họ vẫn làm việc vì cùng một mục tiêu tôn vinh Đấng Christ. Tôi có nhiều anh chị em là chi thể của các nhà thờ khác và các nhóm khác, họ cũng được cứu y như tôi vậy. Họ đúng là đã được Đức Chúa Trời yêu dấu như tôi đây. Chúng ta nhất định không đồng ý về mọi sự. Thực ra, chúng ta bất đồng về một số đề tài. Bất chấp những sự bất đồng ấy, chúng ta được liên kết đời đời bởi mối quan hệ của chúng ta với Đấng Christ.
Đôi khi một số Cơ đốc nhân cảm thấy rằng nhà thờ hay nhóm của họ là nhà thờ hay nhóm duy nhứt mà Đấng Christ thực sự đại dụng hoặc chúc phước cho hay nơi họ Ngài thấy khoái lạc. Một người bạn đến nói cho tôi biết về một nhóm Báptít như vậy, họ tự xưng họ là cô dâu theo nghĩa đen (ẩn dụ khác) của Đấng Christ. Một cụ truyền đạo đến giảng cho họ, cụ nói: Hỡi anh em, nếu chúng ta là cô dâu của Đấng Christ, thế thì Chúa đang có một cô dâu rất trẻ và gầy nhom.
Hết thảy chúng ta đều nghe kể một câu chuyện cười về thiên sứ vừa mới đến tại một vùng đất của thiên đàng. Ngài yêu cầu mọi người im lặng khi bước qua một căn phòng đầy ắp người rồi nói: Sssshhhh, đây là _________ (xin điền vào hệ phái mà bạn đã chọn vào đây!), họ tưởng họ là những người duy nhứt có mặt ở đây. Tôi nghĩ, khi chúng ta sau cùng đến tại thiên thành, hết thảy chúng ta đều sẽ ngạc nhiên bởi ai có mặt và ai không có mặt ở đấy.
Phaolô nói: Vả, như thân là một. Đấng Christ không có nhiều thân đâu! Ngài có một thân. Tuy nhiên, thân ấy có nhiều chi thể. Đấy là chúng ta, những người bởi ân điển nhờ đức tin đã được cứu. Tuy nhiên, “như các chi thể của thân dầu có nhiều, cũng chỉ hiệp thành một thân mà thôi”. Nói chung, chúng tanhiều Cơ đốc nhân là một thân trong Đấng Christ.
Hãy chú ý cụm từ sau cùng: “Đấng Christ khác nào như vậy”. Chúng ta là thân, Ngài là đầu. Ngài phán ở Giăng 15.5: “Ta là gốc nho, các ngươi là nhánh …”. Ngài là Đấng Chăn; chúng ta là bầy chiên. Ngài là nguồn ban sự sống cho hết thảy Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Chúa Jêsus phán ở Giăng 14.19: “vì ta sống thì các ngươi cũng sẽ sống”. I Giăng 5.12 chép: “Ai có Đức Chúa Con thì có sự sống; ai không có Con Đức Chúa Trời thì không có sự sống”. I Côrinhtô 6.17 chép: “Còn ai kết hiệp với Chúa thì trở nên một tánh thiêng liêng cùng Ngài”.
Nói về mặt thuộc linh, chúng ta là một với Đấng Christ và là một với hết thảy những tín hữu chân chính trên khắp thế gian và khắp thời gian. Tuy nhiên, Kinh Thánh dạy rằng một ngày kia hết thảy chúng ta sẽ hiệp lại với nhau về phần xác nữa. Hêbơrơ 2.11-13 chép: “Vì Đấng làm nên thánh và kẻ được nên thánh, đều bởi một Cha mà ra. Cho nên Ngài không thẹn mà gọi những kẻ đó là anh em, khi Ngài có phán: Tôi sẽ truyền danh Chúa cho anh em tôi; Và ngợi khen Chúa ở giữa hội (ekklesia – “Hội Thánh”). Ngài lại phán: Ta sẽ phó thác ta cho Chúa. Lại phán: Ta đây, ta với các con cái mà Đức Chúa Trời đã ban cho ta”. Hêbơrơ 12.22-24 chép: “Nhưng anh em đã tới gần núi Si-ôn, gần thành của Đức Chúa Trời hằng sống, tức là Giê-ru-sa-lem trên trời, gần muôn vàn thiên sứ nhóm lại, gần Hội thánh của những con trưởng được ghi tên trong các từng trời, gần Đức Chúa Trời, là quan án của mọi người, gần các linh hồn người nghĩa được vẹn lành, gần Đức Chúa Jêsus, là Đấng trung bảo của giao ước mới, và gần huyết rưới ra, huyết đó nói tốt hơn huyết của A-bên vậy”. Khải huyền 5.9 nói về những kẻ nhóm lại quanh ngôi của Đức Chúa Trời: “Chúng hát một bài ca mới rằng: Ngài đáng lấy quyển sách mà mở những ấn ra; vì Ngài đã chịu giết lấy huyết mình mà chuộc cho Đức Chúa Trời những người thuộc về mọi chi phái, mọi tiếng, mọi dân tộc, mọi nước”.
B. HAI PHẦN MÔ TẢ VỀ SỰ CỨU RỖI (câu 13).
Câu 13 chép: “Vì chưng chúng ta hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ, đều đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân; và chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa”. Lý do cho sự hiệp một quan trọng nầy là ơn cứu rổi phổ quát của chúng ta. Hãy chú ý thể nào Phaolô mô tả ơn cứu rỗi theo hai cách:
• Thứ nhứt, chúng ta đã chịu phép báptêm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân. Từ ngữ báptêm không luôn luôn đề cập đến phép báptêm bằng nước. Báptêm ra từ chữ baptizo có nghĩa là “nhúng hay dìm xuống nước”. Chúng ta có thể bị nhúng xuống nước sau khi chúng ta trở thành Cơ đốc nhân, nhưng chúng ta bị nhúng xuống nước để trở thành Cơ đốc nhân. Thí dụ ở Mathiơ 3.11, Giăng Báptít nói: “Về phần ta, ta lấy nước mà làm phép báp-tem cho các ngươi ăn năn; song Đấng đến sau ta có quyền phép hơn ta, ta không đáng xách giày Ngài. Ấy là Đấng sẽ làm phép báp-tem cho các ngươi bằng Đức Thánh Linh và bằng lửa”.
Khi bạn được cứu, bạn đã bị nhúng trong Đấng Christ về mặt thuộc linh. Bạn bị dìm sâu vào sự sống của Đức Chúa Trời. Bạn trở thành chi thể của Ngài, một chi thể trong thân của Ngài. Bạn chịu báptêm trong quyền phép sự chết, sự chôn và sự sống lại của Ngài. Rôma 6.3-5 chép: “Hay là, anh em chẳng biết rằng chúng ta thảy đều đã chịu phép báp-têm trong Đức Chúa Jêsus Christ, tức là chịu phép báp-têm trong sự chết Ngài sao? Vậy chúng ta đã bị chôn với Ngài bởi phép báp-têm trong sự chết Ngài, hầu cho Đấng Christ nhờ vinh hiển của Cha được từ kẻ chết sống lại thể nào, thì chúng ta cũng sống trong đời mới thể ấy. Vì nếu chúng ta làm một cùng Ngài bởi sự chết giống như sự chết của Ngài, thì chúng ta cũng sẽ làm một cùng Ngài bởi sự sống lại giống nhau”.
Khi chúng ta làm phép báptêm cho một tân tín hữu và tiếp đón người (nam hay nữ) vào trong gia đình Hội Thánh của chúng ta, chúng ta đang phác họa về mặt thuộc thể những gì đã diễn ra rồi về mặt thuộc linh. Có người dạy rằng phép báptêm thuộc linh chỉ dành cho một số Cơ đốc nhân, phep ấy đã diễn ra sau khi được cứu và tỏ ra qua ân tứ nói tiếng lạ. Trước hết, nói tiếng lạ chẳng có việc gì phải làm với phép báptêm thuộc linh. Nói tiếng lạ là một ân tứ dấu hiệu đã đình chỉ vào thế kỷ thứ nhứt (13.8). Cũng hãy chú ý rằng Phaolô nói chúng ta: “THẢY đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân”. Thảy không có ý nói đến một vài đâu, nó nói đến CẢ THẢY! Mọi người nào thực sự được cứu đều đã chịu “phép báptêm trong Đấng Christ. Phaolô trau chuốt thêm thảy có ý nói gì khi nói “hoặc người Giu-đa, hoặc người Gờ-réc, hoặc tôi mọi, hoặc tự chủ – và CHÚNG TA [thảy] đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa”. Phép báptêm thuộc linh không phải dành cho một vài người, mà dành cho HẾT THẢY những ai thực sự thuộc về Đấng Christ. Hãy suy nghĩ về điều nầy xem! Trong tất cả các Hội Thánh mà Phaolô đã sáng lập, Hội Thánh Côrinhtô rất là xác thịt và thế gian. Tuy nhiên, ông dám nói Hội Thánh nầy: “CHÚNG TA đều đã chịu phép báp-têm chung một Thánh Linh để hiệp làm một thân …”.
• Thứ hai, chúng ta được dựng nên “đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa”. Phaolô nói: “…chúng ta đều đã chịu uống chung một Thánh Linh nữa”. Điều nầy đề cập tới sự ngự vào thường trực của Đức Thánh Linh trong đời sống của người tin Chúa. Chịu phép báptêm về mặt thuộc linh đặt chúng ta vào trong thân của Đấng Christ và uống trong Thánh Linh, còn Thánh Linh thì ở trong thân của Cơ đốc nhân. Chúng ta bị đặt vào trong thân của Đấng Christ và Thánh Linh bị đặt vào trong chúng ta. Rôma 8.9 chép: “Về phần anh em, nếu thật quả Thánh Linh Đức Chúa Trời ở trong mình, thì không sống theo xác thịt đâu, nhưng theo Thánh Linh; song nếu ai không có Thánh Linh của Đấng Christ, thì người ấy chẳng thuộc về Ngài”. Êphêsô 1.13-14 chép: “Ấy lại cũng trong Ngài mà anh em sau khi đã nghe đạo chân thật, là đạo Tin Lành về sự cứu rỗi anh em, ấy là trong Ngài mà anh em đã tin và được ấn chứng bằng Đức Thánh Linh là Đấng Chúa đã hứa, Đấng ấy làm của cầm về cơ nghiệp chúng ta, cho đến kỳ chuộc lấy những kẻ mà Ngài đã được để khen ngợi sự vinh hiển Ngài”.
Đức Thánh Linh là Đấng thường trú trong đời sống chúng ta bảo đảm ơn cứu rỗi của chúng ta. Êphêsô 4.30 chép: “Anh em chớ làm buồn cho Đức Thánh Linh của Đức Chúa Trời, vì nhờ Ngài anh em được ấn chứng đến ngày cứu chuộc”. Thánh Linh của Đức Chúa Trời không được ban cho chúng ta theo cách nhiều lần đâu. Nếu bạn thực sự được cứu, bạn đang có Đức Thánh Linh ngay bây giờ để có cần. Giăng 3.34 chép: “…bởi Đức Chúa Trời ban Thánh Linh cho Ngài không chừng mực”. Không phải nhận một điều gì khác nữa. Bạn không phải chờ đợi Đức Thánh Linh. Đức Thánh Linh đang chờ đợi bạn đấy. Những gì phải làm là vâng theo Ngài vì Ngài đang ngự rồi trong chúng ta.
II. Tất vả tín đồ đều có TÍNH ĐA DẠNG trong Đấng Christ (các câu 14-19).
A. NGUYÊN TẮC: DÙ CHÚNG TA LÀ MỘT THÂN, CHÚNG TA LÀ NHIỀU CHI THỂ (câu 14).
Ở câu 12, Phaolô viết: “Vả, như thân là một, mà có nhiều chi thể”. Bằng cách đối chiếu, chúng ta đọc ở câu 14: “Thân cũng chẳng phải có một chi thể, bèn là nhiều chi thể”. Để hoạt động như một thân, chúng ta phải có nhiều loại khác nhau. Hãy tưởng tượng một ngôi nhà thờ mà ở đó ai nấy đều muốn trở thành mục sư hay hướng dẫn chương trình thờ phượng hoặc ca viên trong ca đoàn hoặc giáo viên, v.v… Đây là lý do tại sao hết thảy chúng ta đều được ban ơn cách đặc biệt. Chúng ta làm tròn các vai trò khác nhau tùy theo ân tứ của mình khi được kết hợp để được dựng nên hiệp thành một thân.
Tôi thích chơi nhạc. Tôi đã chơi đàn guitar trong phần lớn cuộc đời của mình. Thế rồi, tôi đổi sang chơi đàn mandolin. Trong 6 tháng qua, tôi đã chơi violon. Khi có cơ hội, tôi thích chơi đàn với nhiều nhạc sĩ khác. Tuy nhiên, tôi không muốn bước vào một căn phòng đầy những người kéo violon hay chơi đàn mandolin hoặc bất kỳ nhạc cụ nào khác. Tôi thích phim hoạt hình Far Side với đề tựa: “Địa ngục của viên nhạc trưởng”. Phim ấy cho thấy một vị nhạc trưởng bị dẫn dắt bởi một con quỉ trong một gian phòng đầy những tay đàn banjo! Mặt khác, khi tất cả những nhạc cụ khởi hòa âm, cùng lúc và đồng bộ với nhau, hết thảy họ đều chơi cùng một âm thanh. Đấy là những gì Hội Thánh sẽ trở nên giống như vậy. Mỗi một người chúng ta đang thi hành chức dịch của chính mình bằng cách sử dụng các ân tứ thuộc linh của mình và cùng nhau chúng ta hoàn thành ý chỉ của Đức Chúa Trời.
B. PHẦN MINH HỌA: THÂN THỂ CON NGƯỜI (các câu 15-17).
Câu 15 thắc mắc: “Nếu chơn rằng: vì ta chẳng phải là tay, nên ta không thuộc về thân, thì chẳng phải bởi đó chơn không có phần trong thân?” Tất nhiên, chơn của bạn không hoạt động giống như tay của bạn rồi. Tuy nhiên, chơn của bạn đóng một vai trò quan trọng cho thân thể của bạn. Tôi ghét phải đi quanh quẩn với hai bàn tay! Mục đích: chỉ vì bạn không thể là một trưởng lão hay một chấp sự hoặc một giáo viên, bạn vẫn có một vai trò trong thân, sinh hoạt của Hội Thánh.
Câu 16 tương tự thế: “Và nếu tai rằng: Vì ta chẳng phải là mắt, nên ta không thuộc về thân, thì tai chẳng phải bởi đó không có phần trong thân?” Mẹ tôi nói cho tôi biết khi tôi còn nhỏ, rằng các vị giáo sư vốn có hai con mắt ở phía sau đầu của họ. Tuy nhiên, chúng ta không cần thêm hai con mắt ở bên đầu của chúng ta đâu. Hai con mắt là đủ rồi. Chúng ta cần hai lỗ tai.
Phaolô hỏi trong câu 17: “Ví bằng cả thân đều là mắt, thì sự nghe ở đâu?” Hãy hình dung Hội Thánh giờ đây là các chi thể của thân xem. Chúng ta sẽ là một thân gớm guốc nếu hết thảy chúng ta là một chùm những con mắt. Chúng ta sẽ nhìn thấy mọi thứ nhưng chẳng làm được gì. Phaolô cũng hỏi trong câu 17: “Nếu cả thân đều là tai, thì sự ngửi ở đâu?” Nếu hết thảy chúng ta đều là tai, chúng ta sẽ nghe hết mọi sự nhưng chẳng ngửi được, chẳng thấy được, chẳng nếm và chẳng cảm nhận được gì. Hết thảy chúng ta đều cần đến các chi thể của thân đều làm việc với nhau.
C. ỨNG DỤNG: AI NẤY ĐỀU CÓ VAI TRÒ PHẢI ĐÓNG (câu 18).
Câu 18 chép: “Nhưng bây giờ, Đức Chúa Trời đã sắp đặt các chi thể của thân chúng ta, ban cho mỗi một chi thể cái địa vị theo ý Ngài lấy làm tốt mà chỉ định”. Đôi khi cả gia đình chúng ta cùng nhau chơi trò chơi ráp hình. Chúng ta thường làm như vậy nhiều lần trong những ngày lễ. Chiến lược tốt nhứt tôi biết khi cùng nhau chơi ráp hình là tìm những mãnh ở góc trước, kế đó những mãnh ngoài biên rồi ráp những mãnh ở bên trong lại với nhau bằng cách so màu. Tuy nhiên, là một mãnh góc thì quan trọng hơn mãnh ngoài biên hay mãnh ở bên trong? Không. Trò chơi ráp hình sẽ bất toàn nếu BẤT KỲ mãnh nào bị bỏ sót.
Đừng bao giờ ganh tỵ hoặc ghen tương với các ân tứ của người khác. Đức Chúa Trời đã dựng nên bạn phải là bạn. Hãy bước đi với Ngài và Ngài sẽ sử dụng bạn. Chính Đức Chúa Trời là Đấng đãsắp đặt các chi thể của thân chúng ta. Đức Chúa Trời đã dựng nên và ban ơn cho bạn. Đức Chúa Trời đã khôn khéo sắp đặt mỗi một người chúng ta vào trong thân của Ngài. Mỗi một người chúng ta đều đóng một vai trò quan trọng. Đức Chúa Trời vốn quen thuộc với từng chi thể. Thí dụ, một người thợ đồng hồ biết rõ từng chi tiết của chiếc đồng hồ. Ông ta phải sắp đặt từng chi tiết với sự cân đối hoàn toàn với những chi tiết khác để cho nó chạy đúng giờ. Đức Chúa Trời đã đặt mỗi một chúng ta vào trong thântheo ý Ngài lấy làm tốt chỉ định. Bạn là người như thế nào và bạn có thể làm được việc gì, vì việc ấy đẹp lòng nên Đức Chúa Trời dựng nên bạn theo ý Ngài muốn. Chúng ta không có quyền thắc mắc sự xét nét của Đức Chúa Trời về các ân tứ của chúng ta. Rôma 9.20-21 chép: “Nhưng, hỡi người, ngươi là ai, mà dám cãi lại cùng Đức Chúa Trời? Có lẽ nào cái bình bằng đất sét lại nói với kẻ nắn nên mình rằng: Sao ngươi đã làm nên ta như vậy? Người thợ gốm há chẳng có quyền trên đất sét, cùng trong một đống mà làm ra hạng bình để dùng việc sang trọng, lại hạng khác để dùng việc hèn hạ sao?”
D. CẤU TRÚC: ĐẤNG CHRIST LÀ ĐẦU.
Mặc dù Phaolô không nhắc tới vấn đề nầy ở đây, chúng ta phải nhớ rằng trong thân thể quan trọng nầy, đầu là Đấng Christ. Êphêsô 1.22 chép: “Ngài đã bắt muôn vật phục dưới chân Đấng Christ, và ban cho Đấng Christ làm đầu Hội thánh”. Êphêsô 5.23 chép: “vì chồng là đầu vợ, khác nào Đấng Christ là đầu Hội thánh, Hội thánh là thân thể Ngài, và Ngài là Cứu Chúa của Hội thánh”. Côlôse 1.18 chép: “Ấy cũng chính Ngài là đầu của thân thể, tức là đầu Hội thánh. Ngài là ban đầu sanh trước nhất từ trong những kẻ chết, hầu cho trong mọi vật, Ngài đứng đầu hàng”.
Trong ẩn dụ về thân như thế nầy, tôi thường cảm thấy mình giống như một ngón chân khá to vậy. Tôi có khuynh hướng hay vấp vào mọi thứ! Tuy nhiên, ngón chân to không hoạt động cách độc lập đối với cái đầu. Cái đầu cung ứng phương hướng cho từng chi thể và khiến cho hết thảy các chi thể của thân đều cùng làm việc với nhau.
Nếu tôi không làm phần hành của mình, cả thân thể sẽ bị suy yếu đi. Những người khác sẽ đảm đương vai trò của tôi. Bạn có chơi bóng chày không!?! Trong nhiều tuần lễ tôi đã đi khập khiễng quanh đôi nạng. Vì chơn phải của tôi không thể đóng vai trò của nó, hai cánh tay và chân trái của tôi phải gánh lấy sức nặng của cả thân thể. Chúng bị hao phí sức lực nhiều vì tình trạng yếu đuối. Cũng một ý nghĩa đó, nếu bạn không chu toàn chức dịch của mình, nhiều người khác sẽ bị hao phí năng lực khi cố gắng thực thi công việc của bạn thêm vào với công việc của họ nữa.
E. CHÂN LÝ: SẼ CHẲNG CÓ MỘT THÂN NẾU NHƯ CHỈ CÓ MỘT CHI THỂ (câu 19).
Câu 19 chép: “Nếu chỉ có một chi thể mà thôi, thì cái thân ở đâu?” Nói cách khác, một thân với một chi thể sẽ không phải là một thân đâu! Thân ấy sẽ là một chân to hay một tay hoặc một con mắt. Chúng ta hãy suy nghĩ về điều nầy theo cách khác xem. Đội bóng hoạt động với 11 hậu vệ thì là đội bóng gì? Đội bóng chày có 12 người bắt bóng, thì là đội bóng gì? Tập đoàn kinh doanh thuộc loại gì khi có đến 100 hảng chuyên tiếp thị? Xe hơi thuộc loại gì khi có đến 4000 bánh xe bằng thép? Nếu ai nấy đều là một Mục sư, một giáo viên, một chấp sự, v.v… thì Hội Thánh đó là Hội Thánh gì? Mục đích là, bất luận bạn đã được ơn như thế nào, ơn của bạn là quan trọng cho Hội Thánh. Đừng ganh tỵ với ân tứ của người khác. Hãy đồng đi với Chúa kìa! Hãy tấn tới trong ân điển. Hãy khám phá ân tứ của bạn rồi sử dụng chúng vì sự vinh hiển của Đức Chúa Trời trong sự hiệp một của thân thể Đấng Christ.

Comments

BH-“Sự Đa Dạng Của Các Ân Tứ Thuộc Linh” -1Côr. 12:8-11 — No Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *