HomeSÁCH BỒI LINH-TÁC GIẢ MỸSách: "LINH LỰC DO CẦU"Sách: “LINH LỰC DO CẦU” – Chương 1 đến Chương 5

bia-linh-luc-do-cau

Sách: “LINH LỰC DO CẦU” – Tác giả: E.M. BOUNDS

Giới thiệu sách: Khi đọc hết câu cuối cùng, tôi cảm thấy mình hiểu biết sự cầu nguyện nhiều hơn khi mới bắt đầu đọc; còn điều quý hơn nữa, là tôi cảm thấy được thúc giục mạnh mẽ mà cầu nguyện. Mỗi trang giấy rung động vì cớ trái tim và trí óc của một người biết cầu nguyện, quen những ai đã biết cầu nguyện, và nóng lòng mong ước nhiều kẻ khác sẽ biết cầu nguyện. – Tấn Sĩ A.C. DIXON

LỜI NGƯỜI XUẤT BẢN [1]

Sa sút là dấu hiệu đáng buồn của thời đại chúng ta đang sống đây. Trong giới kỹ nghệ và thương mại cũng như trong giới thiêng liêng, lòng người ta sờn ngã vì sợ hãi, và một luồng bi quan ngấm ngầm lan tràn như ung độc qua mọi ngành của cuộc sanh hoạt quốc gia.

 Trong một thời kỳ như vậy, chúng ta phải tự nhắc nhở rằng Đức Chúa Trời không chết; Đấng “hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời vẫn y nguyên” (Hê-bơ-rơ 13:8) vẫn còn ngự trên ngôi thế lực và quyền phép, vẫn sẵn sàng và mong muốn, như mọi khi, được đến cứu giúp dân Ngài trong thì giờ họ túng ngặt kinh khủng hơn hết. Nếu chúng ta lần giở những trang sử, hoặc trần tục hay tôn giáo, thì sẽ thấy lặp đi lặp lại lời quả quyết khích lệ rằng nếu chúng ta kêu cầu Đức Chúa Trời, thì Ngài sẽ đáp lại. Để thử nghiệm Ngài một lần nữa, chúng tôi xin phát hành bài khẩn cấp kêu gọi chúng ta quỳ gối xuống nầy như là một bản hiệu triệu toàn quốc Cầu Nguyện.

Chỗ cầu nguyện là chỗ đắc thắng. Thực sự đó được nêu cao chói lọi trong mỗi trang sử ký Hội Thánh. Có lẽ chúng ta đã quên Chúa, nhưng vì cớ lòng thương xót và yêu mến, nên Ngài vẫn nhớ và chờ thi ân cho chúng ta.

Quyển sách nầy in đẹp đẽ và bán rẽ tiền để có thể lưu hành hết sức rộng rãi và dùng làm tiếng kèn kêu gọi cả Hội Thánh của Đức Chúa Trời. Cách đây mấy năm, nó đã được xuất bản nhiều lần. Theo như cố Tấn Sĩ A.C. Dixon đã viết trong lời tựa hào hứng của bản in đầu tiên, thì “mỗi trang giấy rung động vì cớ trái tim và trí óc của một người biết cầu nguyện, quen những ai đã biết cầu nguyện, và nóng lòng mong ước nhiều kẻ khác sẽ biết cầu nguyện”.

Trong đoạn kết luận, chính tác giả nói rằng: “Vị ân nhân lớn nhất của thời đại nầy chính là người có thể đem các ông Truyền Đạo và Hội Thánh ta quay về cầu nguyện”. Đó là hy vọng của Hội Thánh và của thế gian trong một thời kỳ tối tăm hơn hết, mà cả hai, trải biết từ bao nhiêu thế hệ nay. Đức Chúa Trời nghe và Đức Chúa Trời đáp lại. Mỗi người chúng ta hãy đồn vang tin tức vui mừng nầy!

Và chúng ta hãy cầu nguyện.

[1] Đây là lời của người ấn hành bản nguyên văn tiếng Anh của sách “Linh Lực Do Cầu”.

+++++++++++++++++++++

CHƯƠNG THỨ NHỨT

CẦN CÓ NHỮNG NGƯỜI CẦU NGUYỆN

Hãy suy xét sự thánh khiết toàn diện của đời sống. Ông hữu ích chính là nhờ đó cả, vì bài giảng của ông chỉ lâu một, hai giờ, nhưng đời sống của ông giảng suốt cả tuần lễ. Nếu quỉ Sa-tan có thể khiến ông thành một Mục Sư tham tiền, một người thích được ngợi khen, vui chơi và ăn ngon, thì nó đã hủy phá chức vụ của ông rồi. Ông hãy dâng mình cho sự cầu nguyện, hãy nhận lấy các câu gốc, ý nghĩ và lời nói từ nơi Đức Chúa Trời. Luther ngày xưa đã biệt riêng ba giờ tốt nhất trong mỗi ngày để cầu nguyện. –  ROBERT MURRAY  McCHEYNE

Chúng ta luôn luôn cố sức — Nếu không phải là quá sức — tìm ra những phương pháp mới, những kế hoạch mới, những tổ chức mới, để làm cho Hội Thánh được tấn bộ, cho Đạo Tin Lành chắc chắn được mở mang và có hiệu lực. Khuynh hướng ấy của thời đại nầy có vẻ không nhìn thấy con người, hoặc làm cho con người chìm mất trong kế hoạch hay là sự tổ chức.

Những kế hoạch của Đức Chúa Trời là triệt để sử dụng con người, là dùng họ bội phần hơn bất cứ điều chi khác. Người ta là phương pháp của Đức Chúa Trời. Hội Thánh đang tìm kiếm những phương pháp tốt hơn, nhưng Đức Chúa Trời đang tìm kiếm những người tốt hơn. “Có một người Đức Chúa Trời sai đến, tên là Giăng” (Giăng 1:6). Thời kỳ đi trước và dọn đường cho Đấng Christ đã qui tóm trong ông Giăng đó. “Có một Con Trẻ sanh cho chúng ta, tức là một Con Trai ban cho chúng ta” (Ê-sai 9:5). Sự cứu rỗi thế gian do Con Trai nằm trong nôi đó mà ra. Khi Phao-lô nhắc đến tâm tánh cá nhơn của những người làm cho Đạo Tin Lành đâm rễ trong thế gian, thì ông đã tỏ rõ bí quyết thành công của họ. Tin Lành có vinh quang và hiệu lực hay không tùy ở những người rao truyền nó. Khi Đức Chúa Trời tuyên bố: “Con mắt của Đức Giê-hô-vasoi xét khắp thế gian đặng giúp sức cho kẻ nào có lòng trọn thành đối với Ngài” (II Sử 16:9), thì Ngài tuyên bố rằng người là cần yếu, và Ngài phải nhờ cậy họ làm môi giới để thi hành quyền phép của Ngài trên thế gian. Cái chơn lý tối trọng và cấp bách đó là chơn lý mà thời đại máy móc nầy dễ lãng quên. Đối với công việc Đức Chúa Trời, sự lãng quên nầy cũng tai hại y như cất bỏ mặt trời ra khỏi khu vực của nó. Sự tối tăm, lộn xộn và sự chết theo sau.

Cái điều Hội Thánh cần dùng ngày nay không chỉ là máy móc, (hoặc hơn điều đó nữa là: Tổ chức mới và phương pháp mới) mà là những người Đức Thánh Linh có thể dùng,  đó là những người hay cầu nguyện, người có quyền năng khi cầu nguyện. Đức Thánh Linh không tràn qua phương pháp, nhưng tràn qua người. Ngài không giáng trên máy móc, nhưng giáng trên người. Ngài không xức dầu cho kế hoạch, nhưng xức dầu cho người  –  Người hay cầu nguyện.

Một nhà chép sử đại tài nói rằng các biến cố của tâm tánh cá nhơn có ảnh hưởng với những cuộc cách mạng dân tộc nhiều hơn là các sứ giả thiên về triết lý hoặc chánh khách dân chủ. Điều nầy được áp dụng hoàn toàn cho Tin Lành của Đấng Christ: Tâm tánh và hành vi của các môn đồ Đấng Christ, Cơ-Đốc hóa (Christianiser) thế gian, biến cải các dân tộc và cá nhơn. Đối với những người rao giảng Tin Lành thì đúng cực điểm.

Tánh chất cũng như số mạng của Tin Lành đều đã giao phó cho ông Truyền Đạo, ông tạo nên hoặc làm hỏng sứ điệp (message) của Đức Chúa Trời truyền cho loài người. Ông Truyền Đạo là cái ống dẫn bằng vàng mà dầu của Đức Chúa Trời chảy qua. Ống dẫn chẳng những phải bằng vàng, song cũng phải thông và không nứt rạn, để dầu có thể chảy tràn, không bị ngăn trở và không bị phí mất.

Người ta đào tạo ông Truyền Đạo, Đức Chúa Trời phải đào tạo người ta. Nếu có thể được, sứ giả phải trỗi hơn sứ điệp ông truyền ra. Ông Truyền Đạo trỗi hơn bài giảng, ông Truyền Đạo làm ra bài giảng. Sữa nuôi mạng sống em bé từ vú mẹ tiết ra là do sự sống của mẹ; Thì cũng một thể ấy, mọi lời ông Truyền Đạo nói đều nhuộm thấm tư cách của ông ấy. Dầu thơm báu đựng trong bình bằng đất, mùi của bình đất có thể làm phai mùi của dầu. Con người, tất cả con người ở đàng sau bài giảng. Giảng không phải là công tác trong một giờ; nó chính là sự sống tràn ra. Phải hai mươi năm mới đào tạo được con người. Bài giảng chơn chánh là một phần của sự sống.

Bài giảng lớn lên vì con người lớn lên. Bài giảng mạnh mẽ vì con người mạnh mẽ. Bài giảng thánh vì con người thánh. Bài giảng đầy dẫy sự xức dầu của Đức Chúa Trời, vì con người đầy dẫy sự xức dầu của Đức Chúa Trời.

Phao-lô gọi Tin Lành là “Tin Lành của ta” (II Ti-mô-thê 2:8) không phải là ông đã giảm giá trị của Tin Lành vì những tánh quái dị riêng của mình, hoặc làm sai đường nó vì cớ mạo nhận ích kỷ. Nhưng Tin Lành đã đặt vào tấm lòng và huyết sống của con người Phao-lô như là một nhiệm vụ cá nhơn phải được thi hành nhờ các đặc tánh của ông, phải bùng cháy và có quyền phép nhờ năng lực nhiệt thành trong linh hồn nhiệt thành của ông. Các bài giảng của Phao-lô là gì và bây giờ ở đâu? Là những bộ xương, những mảnh tan tác nổi trên mặt biển linh cảm! Nhưng con người Phao-lô vốn trọng đại hơn các bài giảng của ông, cứ sống mãi mãi, có trọn hình thể, đặc tánh và vóc giạc, và bàn tay ông vẫn nắn đúc Hội Thánh. Giảng chỉ là một tiếng nói. Tiếng nói chết trong yên lặng, câu gốc bị lãng quên, bài giảng phai mờ trong trí nhớ, nhưng ông Truyền Đạo vẫn sống.

Bài giảng không thể có năng lực truyền sự sống hơn con người. Người chết thì giảng bài chết, và bài giảng chết sẽ giết linh hồn. Mọi sự đều thuộc tâm tánh thiêng liêng của ông Truyền Đạo. Trong thời kỳ đạo Giu-đa, trên bảng đeo ngực bằng vàng của thầy tế lễ Thượng Phẩm có nạm chữ bằng ngọc rằng: “Thánh cho Đức Giê-hô-va” (Xuất 28:36). Cũng một thể ấy, mỗi ông Truyền Đạo hầu việc Đấng Christ phải nắn đúc theo khẩu hiệu ấy và bị trị phục bởi khẩu hiệu ấy. Nếu chức vụ hầu việc Đấng Christ lại kém chức vụ thầy tế lễ Giu-đa về tâm tánh thánh khiết và mục đích thánh khiết thì đáng hổ thẹn biết bao! Ông Jonathan Edward nói rằng: “Tôi cứ sốt sắng theo đuổi cho được thánh khiết hơn và giống như Đấng Christ hơn. Thiên đàng mà tôi mong ước chính là một thiên đàng của sự thánh khiết”. Tin Lành của Đấng Christ không chuyển động nhờ những luồng sóng hăm mộ của dân chúng. Nó là một quyền phép tự lan tràn ra. Nó chuyển động theo cái mực những người phụ trách nó chuyển động. Ông Truyền Đạo phải là hiện thân của Tin Lành. Các đặc sắc Thiên Thượng và rất rõ rệt của Tin Lành phải thành hình trong ông. Quyền phép ép buộc của lòng yêu thương phải ở trong ông Truyền Đạo như là một năng lực nổi bật lên, kỳ lạ,  quản trị mọi sự và tự quên mình đi. Sức mạnh của sự từ bỏ mìnhphải là toàn thân, tâm hồn, máu và xương của ông. Ông phải ra đi như một người ở giữa loài người, mặc lấy sự khiêm nhường, ở trong sự nhu mì, khôn ngoan như con rắn và hiền lành như chim bò câu; ông phải mang xiềng xích của một tên tôi mọi cùng với tinh thần của một đế vương; Vừa cao quý, vừa độc lập, nhưng đồng thời phải có sự đơn sơ, dịu dàng như con trẻ. Ông Truyền Đạo phải xông vào công việc cứu rỗi loài người với một đức tin trọn vẹn, tự bỏ mình đi, tự trút mình ra, và với một lòng sốt sắng tự tiêu hao mình. Những ai nắm giữ và đào tạo một thế hệ cho Đức Chúa Trời, thì phải là những thánh tử đạo tận tâm, anh dũng, đầy lòng thương xót và chẳng sợ hãi gì. Nếu họ nhút nhát, a dua theo phong trào, tìm kiếm địa vị, nếu họ muốn làm đẹp lòng người ta hoặc sợ hãi người ta, nếu đức tin của họ chỉ nắm lấy Đức Chúa Trời hoặc Lời Ngài một cách yếu ớt, nếu sự từ bỏ mình của họ bị gián đoạn vì bổn ngã hoặc thế gian xen vào, thì họ không thể nào nắm giữ Hội Thánh hoặc thế gian cho Đức Chúa Trời được.

Lời giảng sâu sắc và mạnh mẽ nhứt của ông Truyền Đạo chính là lời ông tự giảng cho mình. Công việc khó khăn, tế nhị, nhọc nhằn và trọn vẹn hơn hết của ông phải là công việc ông đối xử với chính mình. Công việc lớn lao, khó khăn và lâu bền của Đấng Christ chính là sự đào luyện mười hai Sứ Đồ. Ông Truyền Đạo không phải là kẻ soạn bài giảng, nhưng là kẻ đào tạo người, và đào tạo các thánh đồ. Ai đã tự đào tạo nên một người và một thánh đồ rồi, thì mới là được huấn luyện đầy đủ để làm công việc nầy. Đức Chúa Trời không cần những tài năng lớn lao, hoặc học thức uyên thâm, hoặc nhà Truyền Đạo trứ danh; nhưng Ngài cần những người có sự thánh khiết lớn lao, đức tin lớn lao, lòng yêu thương lớn lao, sự trung tín lớn lao, cần những bậc vĩ nhân sống vì Đức Chúa Trời, cần những người luôn luôn giảng những bài thánh khiết ở trên tòa giảng. Những người nầy có thể nắn đúc một thế hệ cho Đức Chúa Trời.

Các tín đồ đầu tiên đã được đào tạo theo môn phái đó. Họ là những người được nắn đúc vững chắc, là những ông Truyền Đạo theo kiểu Thiên Thượng: Anh hùng, can đảm, hiếu chiến, thánh khiết. Đối với họ, giảng tức là công việc của người tử đạo: Phải từ bỏ mình, tự đóng đinh vào Thập Tự Giá, nghiêm nghị, khó nhọc. Họ hiến thân cho công việc ấy một cách có ảnh hưởng đến thế hệ của họ và đào tạo trong thế hệ đó một thế hệ chưa sanh ra cho Đức Chúa Trời. Người Truyền Đạo phải là người cầu nguyện. Chính sự cầu nguyện là một sức mạnh toàn năng, nên nó truyền ra sức mạnh và sự sống cho  mọi người.

Bài giảng chơn chánh phải soạn[1] trong phòng riêng (tức là nơi cầu nguyện riêng). Con người  –  Người của Đức Chúa Trời  –  được tạo nên trong phòng riêng. Đời sống và các tín niệm (convictions) của ông sanh ra từ sự thông công kín nhiệm với Đức Chúa Trời. Nhờ lúc ở một mình với Đức Chúa Trời mà tâm linh ông thống thiết đến nỗi gánh nặng, tuôn tràn dòng lệ, và ông có được những lời rao truyền vừa mạnh mẽ hơn hết, vừa dịu dàng hơn hết. Sự cầu nguyện tạo nên con người, tạo nên ông Truyền Đạo, tạo nên ông Mục Sư.

Tòa giảng[2] ngày nay yếu ớt về phương diện cầu nguyện. Sự kiêu căng vì học thức chống lại tinh thần khiêm nhường là nhờ cậy vào sự cầu nguyện. Đối với tòa giảng, sự cầu nguyện nhiều khi chỉ là một nghi thức, một sự biểu diễn trước khi thờ phượng chiếu lệ. Đối với tòa giảng đời nay, sự cầu nguyện không phải là một sức mạnh như trong đời sống và chức vụ của Phao-lô. Ông Truyền Đạo mà không lấy sự cầu nguyện làm nguyên động lực mạnh mẽ  trong đời sống và chức vụ mình, thì chỉ là một yếu tố bạc nhược trong công việc Đức Chúa Trời và không có quyền phép để làm cho chánh nghĩa của Đức Chúa Trời được tấn triển trong thế gian nầy.

____________________

[1]Nguyên văn là: Tạo nên

[2]Chỉ bóng về các ông Mục Sư và Truyền Đạo

**************

CHƯƠNG THỨ HAI

SỰ ĐẦY ĐỦ CỦA CHÚNG TÔI ĐẾN TỪ ĐỨC CHÚA TRỜI

(II Cô-rinh-tô 3:5)

Nhưng trên hết mọi sự, ông xuất sắc ở chỗ cầu nguyện. Tâm thần ông sâu nhiệm và cao trọng. Bài giảng của ông cung kính, long trọng, lời nói của ông ít ỏi nhưng đầy đủ. Mọi thứ ấy khiến cho cả người lạ cũng phải hâm mộ, vì thường yên ủi được kẻ khác. Tôi phải nói rằng cái “thân hình” đáng sợ, linh hoạt và cung kính hơn hết mà tôi từng rờ tới hoặc xem ngắm, chính là sự cầu nguyện của ông. Quả thật, sự cầu nguyện của ông là một lời làm chứng. Ông quen biết và sống gần Đức Chúa Trời hơn mọi người khác, vì những ai quen biết Ngài nhiều nhứt đều thấy lý do mạnh nhứt bắt mình phải đến gần Ngài một cách cung kính, sợ sệt. –  Lời ông William Penn luận về Ông GEORGE FOX

Chỉ suy bại chút ít, các ân huệ dịu ngọt hơn hết cũng có thể sanh bông trái cay đắng hơn hết. Mặt trời ban sự sống, nhưng hễ trúng nắng thì chết. Giảng tức là ban phát sự sống; Sự giảng có thể khóa lại cũng như có thể mở khóa. Giảng là một công cuộc lớn lao của Đức Chúa Trời cốt để trồng sự sống thiêng liêng và giúp cho nó trưởng thành. Nếu thi hành đúng phép, thì có lợi ích khôn xiết. Nếu thi hành trái phép, thì không gì có kết quả mà lại còn tai hại hơn. Nếu người chăn khờ dại, hoặc đồng cỏ bị phá hủy, thì rất dễ tiêu diệt bầy chiên. Nếu toán lính canh ngủ say, hoặc đồ ăn và nước bị bỏ thuốc độc, thì rất dễ chiếm lấy thành trì. Vì có những đặc quyền đẹp đẽ như vậy, vì có cơ gặp những tai họa lớn lao như vậy, vì gồm nhiều trách nhiệm như vậy, nên nếu ma quỉ không đem hết thế lực lớn lao để giả mạo ông Truyền Đạo và sự giảng đạo, thì tánh xảo quyệt của nó sẽ bị chế nhạo, tánh tình và danh dự của nó sẽ bi phương hại. Đứng trước mọi sự nầy, câu hỏi cảm thán của Phao-lô không bao giờ sai chỗ: “Ai đương nỗi sự nầy ư ?” (II Cô-rinh-tô 2:16).

Phao-lô nói rằng: “Những tư cách của chúng tôi đến từ Đức Chúa Trời, Ngài cũng đã khiến chúng tôi có đủ tư cách để làm chấp sự của giao ước mới, chẳng phải giao ước bằng văn tự, bèn là bằng Thần Linh; vì văn tự làm cho chết, còn Thần Linh làm cho sống” (II Cô-rinh-tô 3:5,6). Chức vụ chơn chánh phải được Đức Chúa Trời tiếp xúc, được Đức Chúa Trời ban khả năng và do Đức Chúa Trời đào luyện. Thánh Linh của Đức Chúa Trời ở trên ông Truyền Đạo để xức dầu cho ông được quyền phép. Trái của Thánh Linh ở trong lòng ông. Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã sanh động hóa người giảng và lời giảng; Lời giảng của ông ban sự sống. Nó ban sự sống cũng như suối nước ban sự sống, nó ban sự sống cũng như sự phục sanh ban sự sống, nó ban sự sống hăng hái như mùa hạ ban sự sống hăng hái, nó ban sự sống kết quả cũng như mùa thu ban sự sống kết quả. Ông Truyền Đạo ban sự sống là người của Đức Chúa Trời: Tấm lòng ông luôn luôn khát khao Ngài, linh hồn ông luôn luôn theo sát Đức Chúa Trời, con mắt ông chăm chú vào một mình Đức Chúa Trời. Ở trong ông, quyền phép của Thánh Linh Đức Chúa Trời đã đóng đinh xác thịt và thế gian vào Thập Tự Giá, cho nên chức vụ ông giống như dòng sông tràn ngập ban sự sống.

Sự giảng giết chết chính là sự giảng không thiêng liêng. Tài giảng không do Đức Chúa Trời mà ra. Những nguồn thấp kém hơn Đức Chúa Trời đã ban sức mạnh cho nó và kích thích nó. Thánh Linh không tỏ rõ trong người và trong lời giảng của ông. Sự giảng giết chết có thể làm nẩy nở và kích thích nhiều sức mạnh, nhưng đó không phải là sức mạnh thiêng liêng. Nó có thể giống như sức mạnh thiêng liêng, nhưng chỉ là bóng và giả mạo. Nó dường như có sự sống, nhưng sự sống bị thôi miên. Sự giảng giết chết là chữ; có lẽ nó cân đối và có thứ tự, nhưng vẫn là chữ,  –  chữ khô khan  –  chỉ có vỏ ngoài, trống rỗng và trơ trụi. Chữ có thể có mầm sự sống, nhưng không có luồng gió mùa xuân làm cho nó thức dậy. Nó là hột giống gieo lúc mùa đông, cứng rắn như đất mùa đông, lạnh lẽo như khí trời mùa đông, không thể làm nẩy mầm hoặc làm cho tan giá.

Sự giảng bằng chữ nầy có lẽ thật, nhưng lẽ thật của Đức Chúa Trời không tự mình có sức mạnh ban sự sống được, nó phải được Thánh Linh làm cho sanh động, và sau lưng nó phải có hết thảy sức mạnh của Đức Chúa Trời. Nếu không được Thánh Linh của Đức Chúa Trời làm cho sanh động, thì lẽ thật làm cho chết cũng như lẽ giả, hoặc hơn nữa. Có thể lẽ thật không pha trộn, nhưng không có Thánh Linh thì cái bóng và đụng chạm của nó vẫn làm cho chết; sự chơn chánh của nó là sai lạc và sự sáng của nó vẫn là tối tăm. Sự giảng bằng chữ không có sự xức dầu, không được Thánh Linh làm cho chín mềm và xức dầu cho.

Có thể có nước mắt, nhưng nước mắt không thể làm cho guồng máy của Đức Chúa Trời chạy được. Nước mắt có thể chỉ là gió mùa hạ thổi trên núi băng có tuyết phủ thêm, nên chỉ chạm tới lớp mềm ở ngoài. Có thể có cảm giác và sự sốt sắng, nhưng là sự xúc động của một người đóng kịch và sự sốt sắng của một người đại diện trước  tụng đình. Ông Truyền Đạo có thể tự thấy nhiệt thành vì các tàn lửa của mình bùng lên, có thể hùng biện đang khi giải thích Kinh Thánh, có thể sốt sắng rao truyền sáng tác của trí óc mình. Giáo sư có thể chiếm chỗ và bắt chước lửa nhiệt thành của vị Sứ Đồ. Cân não có thể thay thế và giả mạo công việc của Thánh Linh Đức Chúa Trời bởi những sức mạnh ấy, chữ có thể chói lói và lấp lánh như một câu gốc được soi sáng, nhưng sự chói lói và lấp lánh ấy chẳng có sự sống, cũng như đồng ruộng gieo ngọc trai vậy. Có yếu tố làm cho chết ở đằng sau lời nói, đằng sau bài giảng, đằng sau cơ hội, đằng sau cử chỉ, đằng sau hành động.

Trở lực lớn lao ở chính ông Truyền Đạo. Trong ông không có sức mạnh mẽ tạo nên sự sống. Có lẽ không thể hạ giá sự dốc tín, thành thực, trong sạch và sốt sắng của ông; nhưng dầu sao chính con người, con người bề trong ở những nơi sâu kín đã không bị tan nát và phó dâng cho Đức Chúa Trời, và sự sống bên trong của ông vẫn không phải là con đường lớn để truyền tin tức (message) và quyền phép của Đức Chúa Trời. Dẫu sao, bổn ngã, chứ không phải Đức Chúa Trời, vẫn cai trị ở nơi chí thánh. Ở chỗ nào đó mà ông không cảm thấy một cái “núm vặn” thiêng liêng đã đụng tới người bề trong của ông, nên luồng điện của Đức Chúa Trời bị chận lại. Người bề trong của ông không bao giờ cảm thấy nó hoàn toàn “vỡ nợ” thiêng liêng, hoàn toàn vô quyền lực; ông chưa hề tập kêu la trong lúc tự tuyệt vọng và tự biết yếu đuối, cho đến khi quyền phép và lửa của Đức Chúa Trời giáng vào, đầy dẫy, tẩy sạch và ban năng lực cho mình. Dưới một hình thức nham hiểm nào đó, sự tự khen chuộng và tự cậy tài riêng đã phỉ báng và xâm phạm Đền Thờ đáng lẽ phải biệt riêng ra thánh cho Đức Chúa Trời.

Muốn ban sự sống khi giảng dạy, ông Truyền Đạo phải trả giá rất đắc:  –  Phải chết về bổn ngã, phải chịu đóng đinh vào Thập Tự Giá đối với thế gian, và linh hồn ông phải khó nhọc như lúc sanh con. Chỉ có sự giảng đạo bị đóng đinh vào Thập Tự Giá mới ban sự sống được, và sự giảng đạo bị đóng đinh vào Thập Tự Giá chỉ xuất phát từ một ông Truyền Đạo bị đóng đinh vào Thập Tự Giá.

***************

CHƯƠNG THỨ BA

VĂN TỰ LÀM CHO CHẾT

(II Cô-rinh-tô 3:6)

Trong cơn bệnh hoạn nầy, Chúa khiến tôi xem xét đời mình liên quan đến cõi đời đời một cách cẩn thận hơn là khi tôi khỏe mạnh. Trong khi suy xét cách tôi thi hành phận sự đối với kẻ đồng loại theo tư cách một người, một Mục Sư Tin Lành, một chức viên Hội Thánh, thì tôi thấy mình được lương tâm khen chuộng; Nhưng khi suy xét cách tôi thi hành phận sự đối với Đấng Cứu Chuộc và Cứu Chúa tôi, thì kết quả khác hẳn. Sự đền đáp, biết ơn, kính mến và vâng phục của tôi không tương xứng với các bổn phận mình vì đã được Ngài cứu chuộc, gìn giữ và nâng đỡ qua những cuộc thăng trầm của cuộc đời từ lúc thơ ấu cho tới khi già cả. Tôi bị đè nặng và bối rối vì cớ lòng yêu thương lạt lẽo đối với Đấng đã yêu thương tôi trước và đã làm ơn cho tôi biết bao điều.

 Để “hoàn thành” tâm tình không xứng đáng của mình, tôi chẳng những xao lãng không làm hoàn mỹ ân điển Chúa ban cho theo mực độ phận sự và đặc quyền của mình, nhưng vì còn thiếu bậc hoàn mỹ kia mà sa sút lòng sốt sắng, yêu mến ban đầu và thêm bối rối, lo lắng, nhọc nhằn. Tôi bị xấu hổ, phải hạ mình xuống, xin Chúa thương xót mình, và cũng tái lập giao ước sẽ cố gắng dâng mình cho Chúa chẳng giữ lại chút gì! – Giám Mục McKENDREE

Sự giảng làm cho chết có thể và thường là đạo chánh thống, chánh thống về phương diện giáo lý. Chúng ta thích đạo chánh thống. Nó tốt và là tốt nhứt. Nó là sự dạy dỗ thuần túy và rõ rệt của Lời Đức Chúa Trời, là chiến lợi phẩm mà lẽ thật chiếm được trong cuộc giao tranh với lẽ giả, là quân đội mà đức tin đã dấy lên chống chọi nước lụt tàn phá do sự tin sai hoặc sự không tin, dầu nó thành thực hay liều lĩnh cũng vậy. Nhưng đạo chánh thống trong trẽo và cứng rắn như pha lê, đa nghi và thích tranh đấu, có lẽ chúng chỉ là chữ  –  chữ gọt giũa cẩn thận, chữ mang danh hiệu tốt đẹp, chữ học vấn uyên thâm  –  chữ làm cho chết, chết đến nỗi không thuyết lý, không thể suy nghĩ, không thể nghiên cứu, không thể cầu nguyện.

Sự giảng làm cho chết có thể có trí suy xét, có thể hiểu biết các nguyên lý, có thể có học thức uyên thâm và có tài phê bình năng khiếu, có thể hiểu biết chi tiết phép chuyển hóa (déviration) và văn phạm của chữ, có thể sắp đặt cho thành kiểu mẫu trọn vẹn, có thể soi sáng chữ, y như Platon, Cicéron soi sáng, có thể nghiên cứu chữ y như một luật sư nghiên cứu sách vở để lập hồ sơ hoặc để binh vực thân chủ, nhưng vẫn lạnh như băng giá.

Sự giảng bằng chữ có thể hùng hồn, phủ một men thi ca và biện thuyết, rảy thêm lời cầu nguyện, có cảm giác làm gia vị, được thiên tài soi sáng; Nhưng, đó chỉ là “cái gọng” to lớn, liêm khiết, quý giá, hoặc vòng hoa hiếm và đẹp phủ xác chết.

Sự giảng làm cho chết có thể không có học thức uyên thâm, không có ý tưởng hoặc cảm giác mới mẻ nào làm đặc điểm; có thể mặc lấy những tánh cách chung vô vị, và những tánh cách riêng lạt lẽo; có văn thể không đều mực, không cẩn thận, thiếu mùi vị của phòng riêng (chỉ về sự cầu nguyện) hoặc của văn phòng (chỉ về sự nghiên cứu), và không tăng phần đẹp đẽ nhờ tư tưởng, cách phát biểu và sự cầu nguyện. Giảng như vậy thì sự tàn phá hoàn toàn sẽ rộng lớn biết bao, và sự chết thiêng liêng sẽ sâu xa biết bao!

Sự giảng bằng chữ nầy chỉ đối xử với bề mặt và cái bóng của sự vật, chớ không đối xử với chính sự vật. Nó không thấu vào phần bên trong, nó không phân biệt sâu xa và không nắm giữ chặt chẽ sự sống kín giấu của Lời Đức Chúa Trời. Nó trung thành với bề ngoài, nhưng bề ngoài là cái vỏ mà ta phải đập vỡ để vào tới nhân. Chữ có thể mặc áo cho đúng thời trang để hấp dẫn, nhưng không phải là hấp dẫn đến Đức Chúa Trời, và cũng không phải là thời trang thích hợp với Thiên Đàng.

Sự thất bại ở chính ông Truyền Đạo. Không phải là Đức Chúa Trời tạo nên ông, ông chưa bao giờ ở trong tay Đức Chúa Trời giống như đất sét ở trong tay thợ gốm. Ông bận rộn về bài giảng, về ý tưởng và sự hoàn thành nó, về sức mạnh thu hút và cảm động của nó? Nhưng ông không bao giờ tìm kiếm, kê cứu, dò xét và từng trải những sự sâu nhiệm của Đức Chúa Trời. Ông chưa bao giờ đứng trước “ngôi cao và cất lên” (Ê-sai 6:1 theo nguyên văn), chưa bao giờ nghe bài ca của các Sê-ra-phim, chưa bao giờ được hiện thấy về sự thánh khiết kinh khủng đó, hoặc cảm biết luồng sóng mạnh mẽ của nó, chưa bao giờ kêu la vì yếu đuối và mắc tội, đời sống của ông chưa bao giờ được đổi mới, lòng ông chưa bao giờ được chạm tới, tẩy sạch và bùng cháy vì than hồng từ bàn thờ Đức Chúa Trời.

Chức vụ của ông có thể lôi kéo kẻ khác đến với ông, với Hội Thánh, với hình thức và nghi lễ; Nhưng không thật lôi kéo họ đến với Đức Chúa Trời, và không sanh ra sự thông công dịu dàng, thánh khiết, Thiên Thượng. Hội Thánh đã được vẽ tô điểm trên tường nhưng không được gây dựng, được đẹp lòng nhưng không được nên thánh. Sự sống bị tiêu trừ, một luồng lạnh lẽo ở trong khí trời mùa hạ, đất bị thiêu nướng. Thành của Đức Chúa Trời chúng ta hóa ra thành của kẻ chết, Hội Thánh là một nghĩa địa, chớ không phải là một đạo quân giàn trận. Lời ngợi khen và cầu nguyện bị bóp nghẹt, sự thờ phượng chết cứng. Ông Truyền Đạo và sự giảng đạo giúp đỡ tội lỗi, chớ không giúp đỡ sự thánh khiết, đã làm cho địa ngục đông người, chớ không làm cho Thiên Đàng đông người.

Sự làm cho chết là sự giảng không cầu nguyện. Không cầu nguyện thì ông Truyền Đạo tạo nên sự chết, chớ không tạo nên sự sống. Ông Truyền Đạo nào yếu đuối trong sự cầu nguyện, thì cũng yếu đuối không có sức ban sự sống. Ông Truyền Đạo nào đã cho sự cầu nguyện về hưu, không còn dùng nó làm một yếu tố nổi bật và chủ yếu của tâm tánh mình, thì đã làm cho sự giảng dạy của mình mất hết quyền phép ban sự sống. Đã có và sẽ có sự cầu nguyện nhà nghề, nhưng sự cầu nguyện nhà nghề chỉ giúp cho sự giảng dạy làm công việc giết chết. Ta có thể qui cho sự cầu nguyện nhà nghề trên tòa giảng đã gây nên sự mộ đạo lỏng lẽo và những vẻ nhác nhớm, bất kính trong sự cầu nguyện của hội chúng. Sự cầu nguyện ở nhiều tòa giảng thật dài, rời rạc, khô khan, trống rỗng, thiếu sự xức dầu và thiếu tâm hồn; nó như băng giá lạnh chết rơi trên mọi vẻ đẹp của cuộc thờ phượng. Nó là lời cầu nguyện làm cho chết. Hơi thở của nó đã tiêu diệt hết vết tích của lòng mộ đạo. Nó càng chết, thì càng dài. Trên tòa giảng cần phải có sự cầu nguyện ngắn, linh động, thiết thưc tự trong lòng. Cầu nguyện bởi Đức Thánh Linh, cầu nguyện trực tiếp, đặc biệt, sốt sắng, giản dị, dịu dàng. Một trường dạy các ông Truyền Đạo cầu nguyện theo như Đức Chúa Trời đánh giá sự cầu nguyện, sẽ có ích cho sự tin kính thật, sự thờ phượng thật và sự giảng dạy thật, hơn tất cả các trường thần học.

Hãy dừng lại! Hãy suy xét!

Chúng ta đang ở đâu? Chúng ta đang làm gì? Giảng để giết chết chăng? Cầu nguyện để giết chết chăng? Hay là cầu nguyện Đức Chúa Trời,  –  Đức Chúa Trời cao cả, là Đấng tạo nên mọi thế giới và Quan Án của mọi người. Cung kính biết bao! Giản dị biết bao! Thành thực biết bao! Chúng ta phải thưc tế và tận tâm là dường nào! Cầu nguyện Đức Chúa Trời là hành động cao thượng hơn hết và sự cố gắng hơn hết của loài người: Nó cũng là điều thiết thực hơn hết!

Chúng ta há chẳng nên loại bỏ mãi mãi sự giảng dạy và sự cầu nguyện giết chết và đáng rủa sả kia sao? Há chẳng nên làm công việc thiết thực và quyền năng hơn hết, tức là lời cầu nguyện đầy tinh thần cầu nguyện, và lời giảng tạo nên sự sống vốn đem cho ta sức mạnh nhứt trong trời đất mà người ta nhận lãnh được, vốn được nhận lãnh nơi kho tàng vô tận mở rộng của Đức Chúa Trời để làm thỏa mãn nhu cầu và sự túng thiếu của loài người sao?

****************

CHƯƠNG THỨ TƯ

NHỮNG KHUYNH HƯỚNG CẦN PHẢI TRÁNH KHỎI

 Chúng ta hãy thường thường nhìn xem ông Brainerd trong các rừng rậm Mỹ Châu, dốc đổ linh hồn mình ra trước mặt Đức Chúa Trời vì cớ những người thờ hình tượng đang bị hư mất. Nếu họ không được cứu rỗi, thì không gì có thể làm cho ông sung sướng. Sự cầu nguyện kín nhiệm, thành tâm, tin cậy ở gốc rễ tất cả sự tin kính cá nhơn, sự hiểu biết đầy đủ ngôn ngữ của miền Giáo Sĩ đang ở, một tâm tình dịu dàng và dễ được lòng người, một tấm lòng dâng trọn cho Đức Chúa Trời để giữ đạo nơi kín nhiệm,  –  đó là những tư cách quý hơn mọi tri thức và mọi ân tứ khác, sẽ khiến chúng ta nên những lợi khí của Đức Chúa Trời trong công cuộc lớn lao, là sự cứu chuộc loài người. – Đoàn Bác Ái CAREY, tại Serempore

 Có hai cực đoan trong chức vụ giảng đạo:

Một thái cực là tự biệt riêng không giao thiệp với người khác.

Vị tu sĩ và vị tu khổ hạnh chứng minh cho thái cực nầy. Họ tự phân rẽ với loài người để được ở với Đức Chúa Trời nhiều hơn. Lẽ tự nhiên là họ thất bại!

Chúng ta ở với Đức Chúa Trời chỉ có ích lợi khi nào ta rải trên loài người những ơn phước vô giá do sự ở đó. Trong thời đại nầy, cả ông Truyền Đạo lẫn anh em giáo hữu, đều không chăm chú lắm vào Đức Chúa Trời.

Sự mong ước nóng nảy của chúng ta không phải là theo cách đó. Chúng ta tự giam mình trong văn phòng; Chúng ta thành ra những học giả, mọt sách, mọt Kinh Thánh, những nhà soạn bài giảng, nổi tiếng vì văn chương, tư tưởng và bài giảng. Song loài người và Đức Chúa Trời ở đâu?  Ở ngoài lòng ta, ở ngoài trí óc ta. Các ông Truyền Đạo đại tư tưởng, đại học giả, cũng phải là người cầu nguyện mạnh mẽ hơn hết; Bằng không, họ sẽ đứng đầu những kẻ thối lui, không có tâm hồn, hữu danh vô thực, duy lý, và còn bị Đức Chúa Trời coi là kém hơn những ông Truyền Đạo hạng chót nữa.

 Khuynh hướng thứ hai là hoàn toàn quần chúng hóa chức vụ giảng đạo.

Ông Truyền Đạo không còn là người của Đức Chúa Trời nữa, nhưng là một người doanh nghiệp, một người của quần chúng. Ông không cầu nguyện, vì chỉ có nhiệm vụ với quần chúng. Nếu có thể kích động quần chúng, khiến họ lưu ý đến công việc Hội Thánh thì ông thỏa lòng rồi. Mối liên quan riêng của ông với Đức Chúa Trời không phải là yếu tố trong công vụ ông. Trong các kế hoạch của ông, sự cầu nguyện chỉ có một địa vị nhỏ, hoặc không có địa vị chi hết. Môn toán học trần gian không thể lường hết sự tai hại và sự hủy hoại do một chức vụ như vậy. Ông Truyền Đạo có giá trị trong sự cầu nguyện đối với Đức Chúa Trời, với chính mình và với chi hội mình chừng nào, thì cũng chừng ấy ông sẽ có quyền phép để thật giúp ích loài người, sẽ có kết quả thật, sẽ thật trung tín với Đức Chúa Trời và với người ta trong đời nầy và trong cả cõi đời đời.

Nếu không cầu nguyện nhiều, thì ông Truyền Đạo không thể nào giữ cho tâm thần mình hòa hợp với tánh chất Thiên Thượng của chức vụ cao quý mình đang gánh vác. Thật là sai lầm tai hại nếu ta nghĩ rằng một khi làm phận sự và siêng năng trung tín với công việc và tập quán của chức vụ, thì ông Truyền Đạo có thể giữ mình cho hoàn hảo, xứng hợp. Dầu làm bài giảng không ngớt và nhọc nhằn như một nghệ thuật, một phận sự, một công việc, hoặc một thú vui, nhưng nếu xao lãng cầu nguyện, thì sẽ làm cho lòng ông Truyền Đạo bị chiếm cứ, cứng cỏi và xa cách Đức Chúa Trời. Nhà khoa học mất Đức Chúa Trời trong cõi thiên nhiên, còn ông Truyền Đạo có thể mất Đức Chúa Trời trong bài giảng của mình.

Sự cầu nguyện làm tươi mới trái tim của ông Truyền Đạo, giữ cho nó hòa hiệp với Đức Chúa Trời và cảm thông với dân sự. Sự cầu nguyện đem chức vụ của ông ra khỏi bầu không khí giá lạnh của một nghề nghiệp, làm cho công việc thường lệ được kết quả, và làm chuyển mọi bánh xe bởi sự dễ dàng và quyền phép do Đức Chúa Trời xức dầu cho.

Ông Spurgeon có nói rằng: “Lẽ tự nhiên, ông Truyền Đạo trỗi hơn mọi kẻ khác vì là một người chuyên tâm cầu nguyện . Ông cầu nguyện như một tín đồ thường, bằng không, thì ông là một kẻ giả hình. Ông cầu nguyện nhiều hơn các tín đồ thường, bằng không, thì ông không đủ tư cách làm chức vụ mà ông đã gánh vác. Nếu ông làm Mục Sư, Truyền Đạo mà lại không sốt sắng cầu nguyện, thì ông đáng thương hại lắm. Nếu ông lỏng lẽo trong sự hành đạo kín nhiệm, thì chẳng những ông đáng thương hại, song chi hội ông cũng đáng thương hại nữa, và một ngày kia, ông sẽ bị hổ thẹn, áy náy. So sánh với phòng riêng cầu nguyện, thì hết thảy thơ viện và văn phòng của chúng ta chỉ là trống rỗng. Quả thật, những kỳ chúng ta kiêng ăn cầu nguyện trước Đền Tạm chính là những ngày long trọng: Cổng Thiên Đàng chưa hề mở rộng như vậy, và lòng chúng ta chưa hề gần Trung Tâm Vinh Quang như vậy”.

 Sự cầu nguyện chuyên cần của chức vụ Mục Sư, Truyền Đạo không phải là cầu nguyện xen vào một chút giống như rắc gia vị cho dậy mùi thơm ngon; nhưng sự cầu nguyện nầy phải ở trong thân thể, phải cấu tạo thành máu, xương. Cầu nguyện không phải là một phận sự hèn mọn mà ta đặt vào một xó; Không phải là một hành động rời rạc tạo bằng những mảnh vụn thì giờ rứt được ở công việc và những phận sự khác của cuộc sanh hoạt; nhưng nó có nghĩa rằng phải dâng phần tốt nhứt của thì giờ mình, phải dâng chính trái tim của thì giờ và sức lực mình. Nó không có nghĩa là phòng riêng bị văn phòng hút mất hoặc bị nuốt trong các hoạt động của phận sự Mục Sư; Nhưng nó có nghĩa là phòng riêng trước nhứt, văn phòng và các hoạt động thứ hai. Cả văn phòng và các hoạt động nhờ phòng riêng mà được tươi mới và có hiệu lực.

Sự cầu nguyện có ảnh hưởng đến chức vụ của ta thì cũng thêm vẻ đẹp cho đời sống ta. Sự cầu nguyện cho tâm tình chúng ta có màu sắc và thanh nhã, thì không phải là một cuộc giải trí vui thích và vội vàng đâu. Nó phải thấu vào tấm lòng và đời sống cũng mạnh mẽ như “Đấng ấy…đã lớn tiếng khóc than tuôn lụy” (Hê-bơ-rơ 5:7); Phải kéo linh hồn vào tình trạng mong ước như hấp hối của Phao-lô; Phải là một ngọn lửa và sức mạnh thấu suốt như sự “khẩn cầu của người công nghĩa có nhiều quyền lực rất hiệu nghiệm” của Gia-cơ (Gia-cơ 5:16); Phải có tánh cách khi bỏ vào lư hương bằng vàng và đốt trước mặt Đức Chúa Trời, thì gây nên những sự “chuyển bụng” và cách mạng thiêng liêng lớn lao.

Cầu nguyện không phải là một thói quen nhỏ vun trồng cho chúng ta đang khi ta còn thơ dại, nó cũng không phải là một phần tư phút tề chỉnh cảm tạ Chúa trước khi ăn bữa cơm hết một giờ, nhưng nó là một công việc nghiêm trang hơn hết trong những năm nghiêm trang hơn hết của chúng ta. Nó đòi nhiều thì giờ và nhiều thèm khát hơn những bữa ăn lâu nhứt hoặc những bữa tiệc sang nhứt của chúng ta. Phải coi quý sự cầu nguyện, thì sự cầu nguyện mới làm cho sự giảng dạy của chúng ta được kẻ khác nhận được cách quý trọng. Tánh chất sự cầu nguyện của chúng ta sẽ quyết định tánh chất sự giảng dạy của chúng ta. Cầu nguyện làm cho sự giảng dạy mạnh mẽ, khiến cho nó được xức dầu, và làm cho nó dính vào lòng kẻ nghe. Trong mọi chức vụ có giá trị giúp ích kẻ khác, thì bao giờ sự cầu nguyện cũng là một phần việc cẩn trọng.

Trên hết mọi sự, ông Truyền Đạo phải là một người chuyên tâm cầu nguyện. Lòng ông phải tốt nghiệp trường cầu nguyện. Trường cầu nguyện là nơi độc nhứt mà tấm lòng có thể học tập giảng dạy. Không một trình độ học vấn nào có thể bù đắp sự thiếu sót cầu nguyện. Nếu thiếu cầu nguyện, thì sự sốt sắng, chuyên cần, học hỏi và tài năng chi nữa, cũng không thay thế nó được.

Vì Đức Chúa Trời mà nói chuyện với người ta là một việc lớn lao, nhưng vì người ta mà hầu chuyện cùng Đức Chúa Trời còn lớn lao hơn nữa. Ai chưa thông thạo học tập vì người ta mà hầu chuyện Đức Chúa Trời, thì cũng không bao giớ có thể vì Đức Chúa Trời mà nói chuyện với người ta một cách thông thạo và thật có kết quả. Hơn nữa, những lời nói trên tòa giảng và ngoài tòa giảng mà không có sự cầu nguyện kèm theo, thì chỉ là lời làm cho người ta chết.

********************

CHƯƠNG THỨ NĂM

 CẦU NGUYỆN LÀ ĐIỀU TỐI CẦN THIẾT

Anh em chắc biết giá trị của sự cầu nguyện:              

Nó quý vô cùng, không sao kể xiết.

Đừng bao giờ xao lãng cầu nguyện. Huân tước THOMAS BUXTON

Đối với ông Mục Sư, thì cầu nguyện là điều cần thiết nhứt,

Điều cần thiết thứ hai và điều cần thiết thứ ba.

Vậy, hỡi anh em yêu dấu, Hãy cầu nguyện!

Cầu nguyện! Và cầu nguyện. – EDWARD PAYSON

Trong đời sống, trong văn phòng và trên tòa giảng của ông Truyền Đạo, cầu nguyện phải là một năng lực hiển nhiên và thấm nhuần mọi điều, một chất thuốc pha màu mọi sự. Không nên để nó đóng một vai phụ thuộc, và không nên dùng nó làm một lớp phủ ngoài mà thôi. Ông Truyền Đạo được phép ở với Chúa “thâu đêm cầu nguyện” (Lu-ca 6:12). Để tự huấn luyện trong sự từ bỏ mình mà cầu nguyện, ông Truyền Đạo được lịnh nhìn xem Chúa, là Đấng “sáng hôm sau, trời còn mờ mờ, … chờ dậy, bước ra, đi vào nơi vắng vẻ, và cầu nguyện tại đó” (Mác 1:35). Văn phòng của ông Truyền Đạo đáng phải là một nơi kín nhiệm, một Bê-tên, một bàn thờ, một sự hiện thấy, một cái thang, hầu cho mỗi một tư tưởng bay lên trời trước khi truyền tới loài người, và mỗi phần bài giảng được đượm mùi hương của không khí Thiên Đàng, được nên cẩn trọng vì Đức Chúa Trời có ở trong văn phòng.

Nếu không đốt lửa, đầu máy xe lửa không chuyển động thể nào, thì cũng một thể ấy nếu sự cầu nguyện không đốt lửa và làm bốc hơi, cuộc giảng dạy với tất cả máy móc, sự hoàn hảo và bóng bẩy của nó chỉ đứng yên như chết; Ấy là nói về những kết quả thiêng liêng. Nếu không có sức thúc đẩy mạnh mẽ của sự cầu nguyện ở trong bài giảng, suốt qua bài giảng và đằng sau bài giảng, thì yếu tố, sự uyển chuyển và sức mạnh của nó chỉ như rác rến mà thôi.

Ông Truyền Đạo nhớ cầu nguyện nài xin Đức Chúa Trời hướng về người ta, rồi mới có thể nhờ lời nói của mình mà làm cho người ta hướng về Đức Chúa Trời. Ông Truyền Đạo phải bệ kiến Đức Chúa Trời và được phép đến gần Ngài dễ dàng thì mới đến gần người ta được. Đối với ông Truyền Đạo, con đường mở rộng đến với Đức Chúa Trời là bảo đảm chắc chắn nhứt cho con đường mở rộng đến với loài người.

Cần phải nhắc đi nhắc lại rằng, nếu cầu nguyện chỉ là một thói quen, một nghi thức chiếu lệ, hoặc một cử chỉ nhà nghề, thì nó là việc chết và thúi nát. Sự cầu nguyện thể ấy không liên quan gì với sự cầu nguyện mà chúng tôi cố khuyên đây. Chúng tôi nhấn mạnh vào sự cầu nguyện chân chánh, – nó vận dụng và làm bùng cháy hết thảy yếu tố cao quý của tâm thần ông Truyền Đạo; Nó phát sanh từ sự hiệp nhứt sanh động với Đấng Christ và sự đầy dẫy Đức Thánh Linh. Nó nảy ra từ các nguồn suối sâu xa, đầy tràn của sự cảm thương dịu dàng và sự lo lắng linh động cho loài người được phước đời đời, cũng nảy ra từ sự hoàn toàn tin quyết rằng công việc của ông Truyền Đạo là khó khăn, tế nhị và tuyệt đối cần được Đức Chúa Trời giúp đỡ mạnh mẽ hơn hết. Sự cầu nguyện dựa trên những tín niệm (conviction) long trọng và sâu nhiệm, đó là sự cầu nguyện chơn thành độc nhứt vô nhị. Cuộc giảng dạy được sự cầu nguyện dường ấy nâng đỡ, là cuộc giảng dạy độc nhứt vô nhị gieo hột giống sự sống đời đời vào lòng người ta, và gây dựng họ cho xứng đáng ở Thiên Đàng.

Quả thật rằng có thể có sự giảng dạy bình dân, sự giảng dạy vui thích, sự giảng dạy hấp dẫn, sự giảng dạy có nhiều trí tuệ, văn chương và đầu óc, có một phần nào đó hoặc một hình thức nào đó thấy như tốt lành, có thể có một chút cầu nguyện hoặc không cầu nguyện chi hết. Nhưng, sự giảng dạy đạt tới mục đích của Đức Chúa Trời dành cho nó phải do sự cầu nguyện sanh ra từ câu gốc cho tới lời mở đầu, phải được truyền ra với sức lực và tinh thần của sự cầu nguyện; lâu lắm về sau ông Truyền Đạo vẫn cứ cầu nguyện và theo dõi bài giảng làm cho nó nẩy mầm và giữ cho nó có sức lực  sanh động trong lòng thính giả.

Có lẽ chúng ta dùng nhiều cách bào chữa sự thiếu thốn thiêng liêng trong cuộc giảng dạy của mình, nhưng ta sẽ thấy cớ chính là thiếu cầu nguyện khẩn cấp cho được Đức Chúa Trời hiện diện bởi quyền phép của Đức Thánh Linh. Vô số ông Truyền Đạo có thể giảng những bài tuyệt diệu theo phiên thứ của mình; nhưng hiệu quả ngắn ngủi và không phải là một động lực thấu vào các phần của thần linh tại đó đang diễn ra cuộc giao tranh khủng khiếp giữa Đức Chúa Trời và quỉ Sa-tan, giữa Thiên Đàng và địa ngục; Ấy vì những bài giảng đó không được cầu nguyện để có đủ quyền năng mạnh mẽ đạt đến đắc thắng thiêng liêng.

Những ông Truyền Đạo kết quả lớn lao cho Đức Chúa Trời chính là những kẻ đã được ưu thắng trong khi biện bác với Đức Chúa Trời, rồi sau đó mới biện bác với người ta. Những ông Truyền Đạo nào hùng mạnh nhứt với Đức Chúa Trời trong phòng riêng, thì cũng sẽ hùng mạnh nhứt với người ta trên tòa giảng.

 Các ông Truyền Đạo cũng là người, thường thấy và thường mắc phải sức lôi cuốn mạnh mẽ của những trào lưu loài người. Cầu nguyện là công việc thiêng liêng, và bổn tánh loài người không thích phải cố gắng công việc thiêng liêng. Bổn tánh loài người muốn đi tàu đến Thiên Đàng  dưới một ngọn gió hiu hiu tiện lợi, hoặc trên mặt biển hết sức phẳng lặng. Cầu nguyện là công việc hạ người ta xuống, nó hạ trí tuệ và tánh kiêu căng xuống, đóng đinh tánh hiếu danh vào Thập Tự Giá, ký xác nhận chúng ta phá sản phần thiêng liêng; thịt và huyết khó mà chịu nổi mọi sự đó. Thà không cầu nguyện còn dễ chịu hơn là chịu mọi sự đó. Như vậy, chúng ta đi đến một tai nạn lớn của thời kỳ nầy và có lẽ của mọi thời kỳ, – tức là cầu nguyện ít hoặc không cầu nguyện chi hết. Trong hai tai nạn nầy, có lẽ cầu nguyện ít còn tệ hại hơn là không cầu nguyện chi hết. Cầu nguyện ít là một thứ giả dối, một thứ thuốc xức dịu lương tâm, một trò hề và một sự lừa gạt.

Chúng ta đánh giá cầu nguyện rất rẽ nên đã để rất ít thì giờ cầu nguyện. Thì giờ mà ông Truyền Đạo bậc trung bình biệt riêng cho sự cầu nguyện hầu như không đáng kể chi trong tổng số hoạt động hằng ngày. Nhiều khi ông Truyền Đạo chỉ cầu nguyện ở bên giường, lúc đã mặc quần áo ngủ sắp sửa lên giường và chẳng mấy lúc ông đã nằm trên giường. Rồi đến sáng, trước khi thay quần áo có lẽ ông vội vã thêm vài mẫu cầu nguyện. Yếu đuối thay! Hư ảo thay! Ít ỏi thay là sự cầu nguyện như thế ấy nếu ta đem so sánh nó với thì giờ cùng sức lực mà các bậc thánh ở trong và ở ngoài Kinh Thánh đã biệt riêng cho sự cầu nguyện! Bên cạnh các thói quen của các bậc vĩ nhân của Đức Chúa Trời trong mọi thời đại thì sự cầu nguyện hèn hạ, trẻ con của chúng ta thật là nghèo thiếu, thấp thỏi biết bao! Đức Chúa Trời giao chìa khóa của Nước Ngài cho những người nghĩ rằng cầu nguyện là công việc chánh yếu của mình, và biệt riêng thì giờ cầu nguyện theo như chúng tôi đã đánh giá rất cao trọng cho  nó.  Ngài dùng họ để làm nên những kỳ quan thiêng liêng trong thế giới nầy. Cầu nguyện nhiều là dấu hiệu và ấn chứng của các thủ lãnh oai hùng trong công việc Đức Chúa Trời, là đảm bảo cho những lực lượng chiến thắng mà Đức Chúa Trời truyền vào công khó của họ.

Sứ mạng của ông Truyền Đạo là phải cầu nguyện và phải giảng dạy vậy. Nếu ông không làm đầy đủ cả hai phần ấy, thì sứ mạng ông bất toàn. Ông Truyền Đạo có thể giảng với tất cả sự hùng hồn của loài người và Thiên Sứ, nhưng nếu ông không cầu nguyện với một đức tin kéo cả Thiên Đàng đến giúp đỡ mình, thì sự giảng của ông trở nên như “đồng kêu lên hay là chập chỏa vang tiếng” (I Cô-rinh-tô 13:1), không thể dùng để tôn vinh Đức Chúa Trời và cứu vớt linh hồn mãi mãi.

*****************

(Còn tiếp)


Comments

Sách: “LINH LỰC DO CẦU” – Chương 1 đến Chương 5 — No Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *