HomeQNC QUYỀN NĂNG CHÚAQNC.Làm ChứngLời Chứng – “Từ Cội Bồ Đề Đến Chân Thập Tự Giá

TỪ CỘI BỒ ĐỀ ĐẾN CHÂN THẬP TỰ GIÁ
—————————————–
Câu chuyện sau đây là một hồi kí của má tôi. Nó không phải là một câu chuyện không tưởng, nhưng là lời làm chứng thật một trăm phần trăm về quyền năng của Chúa xảy ra trên gia đình má tôi.

Tất cả những nhân vật, địa danh và thời gian đều là thật. Má tôi (Bà Thiều Thị Hường, thường gọi là bà Mười Hường) hiện đang sống tại quận Phú Nhuận, thành phố Sài Gòn và sinh hoạt ở Hội Thánh Tin Lành Gia Định. Bà gởi đến chứng tôi những dòng hồi kí này và mong rằng những đứa con của bà cùng gia đình chúng tôi lúc nào cũng hầu việc Chúa.

Má tôi – Bà Thiều Thị Hường, người con thứ mười nên thường gọi là “Bà Mười Hường” và cũng là con gái út trong một gia đình trung lưu tại xã Thạnh Mỹ Lợi, huyện Thủ Đức. Ông bà ngoại tôi là người rất sùng bái đạo Phật. Ông luôn luôn dạy bảo con cái tu dưỡng, tích đức để được hưởng phước đời sau và học tập cách tu thân như đức Phật. Do đó má tôi, các dì, các cậu đều được ông ngoại tôi khuyến khích đi tu. Lúc má tôi lên 6 tuổi, ông bà ngoại tôi để ruộng vườn, đất đai và nhà cửa tại Giồng Ông Tố cho người con lớn trông nom, rồi dẫn một nữa số con cái lên tu ở gần huyện Long Thành, tỉnh Biên Hòa (dốc 47 đi vào khoảng 2km), xây hai kiểng chùa để cả gia đình ăn chay trường tụng niệm và tu hành.Vì vậy, từ lúc 6 tuổi, má tôi được học kinh Phật bằng chữ nho. Từ sáng đến tối má tôi chỉ học kinh Phật, rồi tụng niệm, ngoài ra không biết gì đến chuyện đời cả. Trong một khu đất có rất nhiều chùa. Một chùa lớn gọi là Tổ Đình, mà vị hòa thượng trụ trì là ông Bộ Sường, đã làm lễ “thí phái quy y” cho cả gia đình ông bà ngoại tôi (gọi nôm na là cạo đầu để nhận vào đạo Phật). Môn phái này là Tịnh Độ. Lễ “thí phái quy y” được tổ chức rất lớn, và mỗi người được vị hòa thượng cho một pháp danh. Má tôi được mang pháp danh Diệu Thông từ đó.

Má tôi tu tại đây cho đến năm 10 tuổi thì hai người anh của má tôi xin phép ông bà ngoại tôi được lên Tây Ninh, vào núi Điện Bà (còn gọi là núi Bà Đen), tìm một hang đá để tu tịnh, chứ không muốn gõ mõ, đánh chuông rườm rà như ở chùa nữa… Má tôi thấy vậy nên cũng xin theo hai anh. Ông bà ngoại tôi bằng lòng. Thế là ba anh em: Hai trai, một gái, đầu cạo láng, chân đi đất, y phục chỉ là cà sa vàng, tay cầm bình bát, mỗi sáng ra chợ hoặc phố đứng yên đọc kinh Phật. Thiên hạ kẻ

qua người lại trông thấy, mang thức ăn cúng vào trong bình bát, có khi là cơm, gạo, xôi nếp, hoặc hoa quả… Được thiên hạ cúng thí thứ nào thì ăn thứ nấy, nhưng chỉ được ăn mỗi ngày một lần vào buổi trưa mà thôi (gọi là ăn Ngọ), vì theo quan niệm các người tu hành Phật Giáo thì ăn Ngọ là những người tu hành Phật Tiên… còn ăn sau bữa ăn trưa như ăn chiều, ăn tối thì dành cho ma quỷ…

Tuy lúc đó mới được 10 tuổi, nhưng má tôi rất ngộ đạo, dốc tâm tu hành khổ hạnh, không thiết tha gì đến việc đời. Mỗi buổi sáng khi má tôi đi khất thực trên hè phố, có nhiều người thành tâm quỳ xuống, lạy dưới chân má tôi. Có người nói rằng: “Họ kính lạy sắc phục của Phật”. Có người lại nói: “Thấy gương của má tôi mà kính phục, vì còn nhỏ mà dám hy sinh, chịu khổ hạnh”. Trong số đó có một người tên là cô Hai Phải. Thấy tình cảnh má tôi quá thương tâm, nên cô động lòng trắc ẩn. Cô đề nghị hai người anh của má tôi dời về khu đất của cô để tu, đừng đi tu trên núi nữa. Tại đây cô Hai Phải cho mỗi người một cái chòi nhỏ (gọi là Cốc) để tu. Từ đó, má tôi và hai cậu khỏi lên núi mà tu tại đây.

Trong thời gian này, ở Tây Ninh có một Nhà thờ Tin Lành. Mục sư Châu, quản nhiệm Hội Thánh, thường đi chứng đạo khắp vùng. Một hôm, ông ghé qua khu đất của cô Hai Phải, thấy má tôi còn quá nhỏ mà ở một mình trong cái cốc nhỏ, đang đọc kinh Phật, nên nghé vào hỏi thăm. Biết má tôi chỉ biết chữ Nho, còn chữ quốc ngữ thì hoàn toàn không biết, nên ông đề nghị dạy cho má tôi chữ quốc ngữ. Từ đó ông lui tới thăm viếng má tôi luôn để dạy cho má tôi học đọc và viết chữ quốc ngữ. Đến khi má tôi nguệch ngoạc viết được chữ quốc ngữ thì Mục sư Châu tặng cho má tôi một cây viết, một cuốn tập, và đặc biệt là cho má tôi mượn một quyển Kinh Thánh Tân Cựu Ước để má tôi mỗi ngày noi theo nét chữ tập viết cho quen. Có một điều lạ là Mục sư Châu không hề khuyên bảo má tôi tin theo Chúa hoặc từ bỏ Phật giáo. Ông chỉ đến dạy sơ về Kinh thánh thôi.

Má tôi ở đó được một năm (tức 11 tuổi), thì hay tin ông ngoại tôi bệnh nặng, nên trở về thăm. Ông ngoại tôi giữ lại không cho về Tây Ninh nữa. Vì bệnh nặng nên ông ngoại tôi để lại một người con tại Long Thành coi sóc chùa, rồi đưa cả gia đình trở về Mỹ Thạnh Lợi. Ông nhờ thợ xây một kiểng chùa lớn trước mặt nhà để tu, đồng thời cũng gần nhà thương và thầy thuốc để chạy chữa bệnh khi cần.

Má tôi kể lại cho ông ngoại tôi nghe về Mục sư Châu, cũng như vài câu chuyện về Chúa Giê-xu. Ông ngoại tôi nói: “Bây giờ chờ thợ xây cất nhà xong thì mình lên Sài Gòn mua thêm tượng Chúa về thờ chung với Phật cũng tốt vậy”. Lúc đó, má tôi đâu biết nhiều về Chúa Cứu Thế Giê-xu và phải thờ phượng Chúa như thế nào để nói cho gia đình hiểu, vì Mục sư Châu không có dạy !!! (Đến ngày nay mỗi lần nhắc đến câu chuyện này má tôi rất hối tiết vì không kịp cho cha mình biết về Chúa Cứu Thế).
Ba năm sau, ông ngoại tôi trở bệnh nặng và qua đời. Cả gia đình đều buồn bã và bơ vơ vì mất một người chồng đạo đức, một người cha yêu dấu, cũng là trụ cột tinh thần hướng dẫn và chỉ đạo cả gia đình.

Sau đám tang ông ngoại tôi nữa năm, một người gì của tôi đi chợ Giồng Ông Tố về có mang theo một cuốn sách nhỏ do một người trao tặng…Má tôi đọc cuốn sách nhỏ đó cho bà ngoại tôi nghe. Đây là lúc quyền năng của Chúa Giê-xu thể hiện, vì cuốn sách nhỏ ấy chính là sách Công Vụ Các Sứ Đồ, một cuốn sách trong Kinh thánh, Lời của Đức Chúa Trời. Khi má tôi đọc đến đoạn 4 câu 12: “Chẳng có sự cứu rỗi trong Đấng nào khác, vì ở dưới trời chẳng có danh nào khác ban cho loài người để chúng ta phải nhờ đó mà được cứu”, thì bỗng má tôi thấy có một ý hay nên đọc trở lại vài lần. Cũng ngay lúc này bà ngoại tôi chợt nói: “Nếu chỉ có Chúa là Đấng cứu mình và ngoài ra chẳng có đấng nào khác thì tại sao mình không theo Chúa ?”

Từ đó Thánh Linh của Chúa dùng câu Kinh Thánh tác động mạnh khiến bà ngoại tôi suy nghĩ nhiều. Bà đi hỏi thăm địa chỉ Nhà thờ Tin Lành. Lúc đó, chỉ tại thị trấn huyện Thủ Đức mới có Nhà thờ Tin Lành, nhưng từ Mỹ Thạnh Lợi đến Thủ Đức cách xa 14km. Sự đi lại lúc bấy giờ rất khó khăn vì không có phương tiện đi lại dồi dào như ngày nay. Nhưng một hôm bà ngoại tôi quyết định đi mướn chiếc xe ngựa, chở cả gia đình lên Thủ Đức tìm Nhà thờ Tin Lành (lúc bấy giờ là đúng một năm sau khi ông ngoại tôi qua đời).

Khi chiếc xe ngựa dừng lại trước cổng Nhà thờ Thủ Đức, thì nhiều người đi ra bảo cho bà tôi biết rằng chùa nằm ở phía bên kia, còn đây là nhà thờ Tin Lành, vì họ thấy chiếc xe ngựa chở toàn thầy chùa và cô vãi đầu thì trọc láng, áo quần thì toàn là cà sa chính hiệu…

Khi nghe bà ngoại tôi trình bày, họ mới vỡ lẽ và quá ngạc nhiên. Họ trở vào mời Mục sư ra tiếp đón “Phái đoàn sư sãi” và Nhà thờ. Lúc ấy là năm 1941, quản nhiệm Hội thánh là Mục sư Bùi Tự Do. Ông mời cả gia đình ngoại tôi vào Nhà thờ, hỏi thăm và giải nghĩa tận tường những cơ bản về đạo cứu rỗi. Sau đó bà ngoại tôi, các cậu, dì và má tôi đồng lòng quý xuống ăn năn tin nhận Chúa… Cả Hội thánh bật khóc vì quyền năng của Chúa quá lạ lùng. Quang cảnh một nhóm sư sãi áo vàng đi tìm Nhà thờ Tin Lành để tin nhận Chúa thì quả là lạ đời và hi hữu trên thế gian này.

Sau khi tin nhận Chúa tại Hội Thánh Tin Lành Thủ Đức vào khoản tháng 7 năm 1941, thì đến trước Lễ Giáng Sinh, cả gia đình ngoại, má tôi đều chịu phép báp têm.

Từ khi tin nhận Chúa, cả gia đình ngoại tôi lúc nào cũng chuyên cần học hỏi Kinh Thánh. Bà ngoại tôi dự tính tu sửa kiểng chùa lớn ở khu đất mà ông ngoại tôi khi còn sống đã làm, nhưng còn dang dở. Mục sư Bùi Tự Do và Ban Trị Sự Hội Thánh Thủ Đức đã đến thăm gia đình bà ngoại tôi và tổ chức “bố đạo” (truyền giảng) ngay tại chùa. Cứ mỗi tuần vào chiều thứ năm, bà ngoại tôi sắp nghế mời mọi người đến nghe giảng đạo.

Công cuộc truyền giảng ngày càng có kết quả tốt, dân chúng tin nhận Chúa rất nhiều. Bà ngoại tôi đề nghị Mục sư Bùi Tự Do xin phép cất Nhà Thờ tại xã Mỹ Thạnh Lợi, vì giảng đạo trong chùa thì không đủ chổ ngồi, còn lên Nhà Thờ Thủ Đức thì xa 14km, người dân không thể đi được.

Khoảng một năm sau, việc xây cất nhà thờ được chấp thuận. Ngôi nhà thờ nhỏ nhưng khang trang dựng bên cạnh chùa của ông bà ngoại tôi. Hội Thánh cử vợ chồng thầy Tường đến ở chăm nom. Nhà thờ nhóm lại mỗi tuần một lần vào thứ năm do Mục sư Bùi Tự Do đảm trách và mỗi tháng tổ chức truyền giảng môt lần .
Lúc bấy giờ chiến tranh bộc phát mạnh ( khoảng 1942-1943), mọi người chạy lánh nạn, Nhà thờ Thạnh Mỹ Lợi bị bắn sập. Gia định ngoại tôi phải dọn cách đó khoảng 2km. Từ đó gia đình tôi phải lên Nhà thờ Thủ Đức để thờ phượng Chúa.

Về phần má tôi, từ khi tiếp nhận Chúa – đầu tóc ra chưa kịp và má tôi luôn mặt áo cà sa vàng vì quá quen thuộc – nhưng vẫn trung tín đi thờ phượng Chúa.

Đến kì Hội Đồng của Hội Thánh tổ chức tại Sại Gòn. Mục sư Do cũng đưa má tôi đến để làm chứng về quyền năng kì diệu của Chúa. Liên tiếp mấy năm liền Hội Đông tổ chức tại đâu, là má tôi lại cà sa vàng, đứng lên lớn tiếng làm chứng. Mọi người nghe đều rất cảm động.

Đến năm 15 tuổi, má tôi được bà ngoại cho đi tham dự khóa học Kinh Thánh tổ chức tại Cần Thơ trong vòng một tháng rưỡi. Má tôi rất vui mừng vì được tham dự học Kinh Thánh và cầu nguyện xin Chúa sử dụng má tôi trong công việc nhà Chúa. Từ đó má tôi là người đi làm chứng sốt sắng nhất trong Ban Thanh Niên Hội Thánh Thủ Đức. Chùa nào, miếu nào má tôi cũng lặn lội đến để rao truyền ơn cứu rỗi của Chúa.

Đến năm 17 tuổi, ông bà nội của ba tôi đến xin cưới má tôi cho cháu nội đích tôn (vì cha mất sớm nên ba tôi phải sống với ông bà nội từ thuở nhỏ). Ông bà là một trong những người tin Chúa đầu tiên ở Hội Thánh Thủ Đức, hầu việc Chúa trong Ban Chấp Sự Hội Thánh. Ba tôi lúc bấy giờ là Thư Ký Hội Thánh kiêm Trưởng Ban Thanh Niên.

Từ đó đến nay, trên bước đường theo Chúa, phục sự Ngài trải qua rất nhiều thử thách tưởng chừng không thể vượt qua nổi, nhưng ơn lành, nhân từ, và sự nâng đỡ của Chúa đã giúp má tôi kinh nghiệm tình thương của Chúa nhiều hơn, hưởng phước của Chúa thật kì diệu cho đến ngày hôm nay. Má tôi dâng lên Chúa lời cảm tạ Chân thành và dâng tất cả con cái mình cho Chúa để Ngài sử dụng thật hữu ích trong công việc Ngài. Chúng tôi cũng được hưởng phước mà Chúa hứa ban đến ngàn đời cho hậu tự của những người yêu mến, kính sợ Chúa và vâng giữ Lời Ngài, và khi qua đời, chúng tôi sẽ được sống đời đời trên Thiên Đàng.

Bạn thân mến !

Có thể bạn là người thỉnh thoảng đi chùa, đã quy y hoặc xuất gia, ăn chay trường hoặc ăn chay vì có lời khấn hứa khi gặp một gian nguy nào đó trong cuộc sống… hay bạn đang quá đau đớn, lo lắng, sợ hải bị trừng phạt vì những tội lỗi của quá khứ và hiện tại, bạn muốn phục thiện, muốn làm công đức, mong rằng được xóa tội, thoát khỏi biển đời đau khổ này…Nhưng triết lí nhà phật có câu : “Nhứt niệm sân si khởi, năng thiêu thiên vạn đức chi lâm”, nghĩa là một ý nghĩ nóng giận nổi lên có khả năng thiêu hủy vạn rừng công đức. “Một đời làm lành, lành chưa đủ. Một phát làm tội, tội có dư”.

Bạn có chắc rằng suốt cả đời mình sẽ không bao giờ phạm vào tham, sân, si, hỷ, nộ, ái, ố không? Con người ở trong công lệ thiên nhiên: sanh, lão, bệnh, tử. Có những lúc cơ thể mệt mỏi, bệnh tật, khó khăn… bạn có chắc mình sẽ không bao giờ phạm tội, và vượt được những thử thách cám dỗ ? Nếu phạm tội thì công đức vừa làm coi như vô nghĩa.

Bạn có chắc rằng khi qua đời bạn sẽ vào Niết Bàn hay sa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh ? Theo giáo lý nhà Phật thì có kiếp luân hồi, khi con người phạm tội sẽ bị đày đọa, rồi sống trong kiếp súc sanh, khốn khổ, không thể tự chủ được đời sống mình, thì làm sao mà tu để trở lại đầu thai thành người, và bản chất con người là tội lỗi, thì làm sao bạn có thể thoát khỏi bến mê này được ?

Bạn giống như một người sắp chết đuối cần được cứu chứ không cần phương pháp, pháp môn. Các tôn giáo chỉ cho con người cách để vượt khổ, nhưng không ban cho năng lực, tự họ phải nổ lực vật lộn giữa biển đời này. Hãy suy gẫm lại bạn sẽ thấy biết bao phong ba bão táp của cuộc sống muốn nhận chìm cuộc đời bạn ? Con người bất lực, cần nắm lấy phao cứu sinh cho linh hồn, cho cuộc đời mình.

Kinh thánh khẳng định : “ Theo như đã định cho loài người phải chết một lần rồi chịu phán xét”. ( Hê bơ rơ 9 : 27).

“Đang khi chúng ta bó tay tuyệt vọng, Chúa Cứu Thế đã đến đúng lúc để chết thay cho chúng ta, là người tội lỗi, xấu xa” (BDY- Rô ma 5:6).

“Ai tin Chúa Giêxu thì có sự sống đời đời, ai không chịu tin Chúa Giêxu thì không có sự sống đâu, nhưng cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn ở trên người ấy” (Giăng 3:36).

Bạn thân mến !

Chúa Giêxu là Phao Cứu Sinh của bạn. Chúa là Đấng Thánh Khiết đã từ bỏ Thiên Đàng đến trần gian để chịu chết, để trả thay món nợ tội lỗi cho bạn và cả nhân loại. Chúa đã sống lại để chứng minh Ngài đắc thắng sự chết, bảo đảm cho sự cứu rỗi của bạn va đưa bạn vào nước Thiên Đàng.

Sau khi đọc những lời chứng tâm huyết trên, xin bạn tin nhận Chúa Giêxu là Cứu Chúa của cả đời mình và hưởng ơn phước của Ngài. Xin bạn quỳ xuống và thành tâm cầu nguyện như sau : “

Kính lạy Chúa Cứu Thế Giêxu, Ngài là Chân Lý. Bấy lâu nay, con sống trong tội lỗi, nhưng bây giờ con xin ăn năn, từ bỏ tội lỗi của con. Con tin Chúa đã chết trên cây thập tự để làm giá cứu chuột con. Giờ này, con xin Chúa tha tội cho con, chấp nhận con làm con cái Đức Chúa Trời. Xin Ngài dẫn dắt, làm Chủ Tể của đời con, con cảm tạ Chúa vô cùng. Con thành tâm cầu nguyện, nhân Danh Chúa Giêxu. Amen!”.


Comments

Lời Chứng – “Từ Cội Bồ Đề Đến Chân Thập Tự Giá — No Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *