HomeBG BÀI GIẢNG HAY - SERMONSBG Của MS N. Duy TânBG – “BÍ QUYẾT ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG”, II Các-Vua 18 & 19

Mục sư Nguyễn Duy Tân, © 2017 – TinLanhLibrary.com

Dẫn Nhập: Trong khi vua Ô-sê cai trị 10 chi phái miền Bắc gọi là nước Y-sơ-ra-ên với thủ đô là Sa-ma-ri, thì vua Ê-xê-chia cai trị xứ Giu-đa (với hai chi phái Giu-đa và Bên-gia-min) thuộc miền Nam nước Do-thái với thủ đô là Giêrusalem.  Ê-xê-chia lên ngôi lúc 25 tuồi, vào khoảng năm 722 T.C. (Trước Công Nguyên).

Thành Giêrusalem trong thời vua Ê-xê-chia dù có vách tường thật kiên cố nhưng tương đối là một thành rất nhỏ. Dân cư trong thành nhiều lắm là 30 nghìn người kể luôn đạo quân bảo vệ thành. Trong khi đó thì đạo quân A-si-ri với trên 185,000 người kéo đến đóng trại gần đó chuẩn bị để tấn công thành nầy. Dân A-si-ri có nhiều đời vua hùng mạnh đã từng chiến thắng và cai trị nhiều nước ở Trung đông và Phi Châu suốt 200 năm. Trước hoàn cảnh nầy, dân Giu-đa trong thành đang sống trong tinh thần tuyệt vọng và sợ hãi. Nhất là trong mấy tháng trường kẻ thù không cho ai mang đồ ăn vào thành. Nhưng trong phần cuối của lịch sử được ghi trong II Các-vua đoạn 18 & 19 nầy chúng ta thấy rõ Chúa đã nhậm lời và giải cứu vua Ê-xê-chia và dân sự của Ngài cách lạ kỳ.

Chúng ta muốn học biết bí quyết nào mà họ đã được Chúa giúp đắc thắng một kẻ thù mạnh hơn họ gấp bội phần, trong khi thủ đô Sa-ma-ri và các thành trì của 10 chi phái Ysơraên thuộc miền Bắc đều bại trận, và dân sự bị đày qua A-si-ri.

1)- LÒNG TIN KÍNH CHÚA CỦA VUA Ê-XÊ-CHIA VÀ CÁC LÃNH ĐẠO DÂN GIU-ĐA

Vua Ê-xê-chia là con cháu của vua Đavít và là một vị vua có tấm lòng kính sợ Chúa như Đa-vít chứ không phải như cha của ông là vua A-cha. Ngay sau khi lên ngôi, ông bắt đầu một cuộc cách mạng tôn giáo. Ông phá đổ hết các thần tượng và nơi thờ phượng các thần ngoại bang mà cha ông đã dựng nên. Ông mở cửa đền thờ và khích lệ dân sự bắt đầu thờ phượng Chúa và dâng của lễ như Môi-se dạy. Các lãnh đạo tôn giáo cùng dân sự đều nghe theo lời ông và trở lại với Chúa.  

 Sau đây là những lý do giúp chúng ta hiểu tại sao Ê-xê-chia được đẹp lòng Chúa và được Ngài ban phước:

a. “Người làm điều thiện” tức là có đời sống ngay thẳng, không tội lỗi, chẳng những trước mặt mọi người, mà cũng “trước mặt Đức Giêhôva” là điều khó làm hơn.

Câu 3 – “Người làm điều thiện trước mặt Đức Giê-hô-va y như Đa-vít, tổ phụ người, đã làm.”

b. Người phá đỗ các thần tượng và loại bỏ tà giáo và các hình thức thờ phượng không phải lẽ ra khỏi đất nước.

Câu 4 – “Người PHÁ HỦY các nơi cao, ĐẬP BỂ những trụ thờ, ĐÁNH HẠ các A-sê-ra, và BẺ GÃY con rắn đồng mà Môi-se đã làm; bởi vì cho đến khi ấy dân Y-sơ-ra-ên xông hương cho nó người ta gọi hình rắn ấy là Nê-hu-tan.”  

Những từ ngữ “phá hủy”, “đập bể”, “đánh hạ” và “bẻ gãy” nhấn mạnh đến gương của Ê-xê-chia cho chúng ta là ông đã có những hành động DỨT KHOÁT để dẹp bỏ khỏi đời sống những hình tượng, tức là những điều GỚM GHIẾT trước mặt Đức Chúa Trời.

Con rắn bằng đồng là biểu tượng về Đấng Christ chịu treo trên thập tự giá mà Chúa truyền lệnh cho Môi-se làm để cứu dân sự khi bị rắn lửa cắn trong đồng vắng. Có thể dân sự đã mang nó vào đất hứa để làm vật kỷ niệm, nhưng không ngờ sau đó con cháu họ đem ra để thờ. Đó là hình ảnh của những HÌNH THỨC TÔN GIÁO SAI TRẬT. Việc vua Êxêchia đập phá con rắn đồng nhắc chúng ta nên can đảm SỬA ĐỔI hay LOẠI BỎ những hình thức thờ phượng sai trật và không hợp lẽ trong sự thờ phượng Chúa của chúng ta.

c. Người có đức tin mạnh mẽ nơi Chúa là Chân thần duy nhất.

Câu 5 – “Ê-xê-chia nhờ cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; nên trong các vua sau người, hoặc trong những vua trước người, chẳng có một ai giống như người.”

 d. Người có lòng yêu mến Chúa, trung tín thờ phượng và gìn giữ các điều răn của Đức Chúa Trời.

Câu 6 – “Người tríu mến Đức Giê-hô-va, không xây bỏ Ngài, song gìn giữ các điều răn mà Đức Giê-hô-va đã truyền cho Môi-se.”

 e. Người nhờ cậy Chúa mà dám chống lại những kẻ thù đã từng cai trị lâu đời trên dân tộc của mình.

Câu 7,8 –  “Đức Giê-hô-va ở cùng người; hễ người đi làm sự gì, đều được thành tựu. Người dấy nghịch với vua A-si-ri, không phục vua ấy nữa.  Người hãm đánh xứ dân Phi-li-tin cho đến Ga-xa và địa hạt chung quanh thành, từ tháp vọng canh đến thành kiên cố.”

 f. Ê-xê-chia kính sợ Chúa bao nhiêu thì vua Ô-sê ở miền Bắc lại thiếu lòng tin kính Chúa bấy nhiêu: II Các-Vua 18 từ câu 9-12 có ghi lại hình ảnh tưởng phản của quốc gia phía Bắc nầy, và câu 12 cho biếy lý do tại sao họ bị bại trận và bị bắt làm phu tù như sau:

Câu 12 – “ẤY VÌ chúng không có vâng theo lời phán của Giê-hô-va Đức Chúa Trời mình, nhưng bội giao ước Ngài, không khứng nghe, và chẳng làm theo các điều mà Môi-se, tôi tớ của Đức Giê-hô-va, đã truyền cho.”

 2)- LÒNG KIÊU NGẠO CỦA SAN-CHÊ-RÍP, VUA A-SI-RI

Vua San-chê-ríp và quân đội của A-si-ri (Syria ngày nay) rất tự hào vì họ có quân đội hùng mạnh, với ngựa xe đầy đủ, và chiến lược quân sự đầy kinh nghiệm và khéo léo.

Họ rất kiêu ngạo vì quốc gia họ đã làm bá chủ trong cả vùng Trung đông suốt hơn 200 năm, cai trị nhiều quốc gia lớn kể cả Ba-by-lôn.

Trước đó vua Sanh-ma-na-sa của A-si-ri đã chiếm đóng một số thành trì kiên cố của Sa-ma-ri và bắt dân Y-sơ-ra-ên ở miền Bắc làm phu tù. Từ đoạn 18 nầy chúng ta thấy vị vua mới của A-si-ri là San-chê-ríp cũng đã sai quân đánh chiếm nhiều thành trì phía Nam thuộc xứ Giu-đa, tiếp tục tiến vào Giê-ru-sa-lem. Các tướng lãnh và quân A-si-ri đông đúc đã đóng trại gần thành, không cho ai vào ra, và chờ ngày vua và dân Giu-đa đầu hàng. 

Chúng bắt đầu bằng chiến tranh tâm lý, đe dọa tinh thần dân chúng, gây hoang mang, tạo sự nghi ngờ trên người lãnh đạo của họ là vua Ê-xê-chia, nghi ngờ lời tiên tri của họ là Ê-sai, và nhất là cố gắng làm cho dân sự mất đức tin nơi Đức Giê-hô-Va là Chúa của họ.

Vua San-chê-ríp đang bận bao vây một thành khác (19:8) nên sai sứ giả của mình là Ráp-sa-kê thách đố các sứ giả của vua Ê-xê-chia rằng họ không thể nhờ cậy Đức Giê-hô-va bằng cách bóp méo sự thật rằng Ngài sẽ không giúp cho Ê-xê-chia vì ông đã phá đổ các đền thờ thần. Họ có ý nói rằng Chúa sẽ giận vua Ê-xê-chia vì Ngài cũng là một vị thần như các thần kia. Ông còn nói dối thêm rằng Ê-xê-chia cũng đã phá đổ “bàn thờ của Ngài.”

Câu 22 – “Có lẽ các ngươi sẽ nói với ta rằng: Chúng tôi nhờ cậy nơi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi. Nhưng há chẳng phải các nơi caobàn thờ của Ngài mà Ê-xê-chia có phá hủy, truyền cho Giu-đa và Giê-ru-sa-lem rằng: Các ngươi khá thờ phượng Chúa tại Giê-ru-sa-lem ở trước bàn thờ này, chăng?”

Ráp-sa-kê cũng đến trước vách thành Giêrusalem và lớn tiếng kêu gọi dân Giu-da và quân lính họ đừng tin tưởng nơi Ê-xê-chia và Chúa của họ.

Câu 28-31 – “Đoạn, Ráp-sa-kê đứng tại đó, cất tiếng la lớn lên bằng tiếng Giu-đa mà rằng: Hãy nghe lời vua A-si-ri, là vua lớn, nói. Vua nói như vầy: Chớ để cho Ê-xê-chia lường gạt các ngươi, vì hắn không tài nào giải các ngươi khỏi tay ta. Cũng chớ để người dỗ các ngươi tin cậy nơi Đức Giê-hô-va, mà rằng: Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta, và thành này sẽ chẳng sa vào tay của vua A-si-ri đâu.”

 Hăm dọa xong, Ráp-sa-kê cũng dùng lời ngọt ngào để CÁM DỖ quân và dân Giu-đa, kêu gọi họ đầu hàng, để được thoát chết mà cũng được hưởng một đời sống sung sướng ở xứ mà họ sẽ được đi đến.

Câu 31, 32 – “Chớ nghe Ê-xê-chia, vì vua A-si-ri nói như vầy: Khá hòa với ta và hàng đầu ta; mỗi người trong các ngươi sẽ được ăn hoa quả của vườn nho và của cây vả mình, cùng uống nước giếng mình, cho đến chừng ta tới dẫn các ngươi vào trong một xứ giống như xứ của các ngươi, tức là xứ có lúa và rượu, bánh và vườn nho, một xứ sanh dầu ô-li-ve và mật ong. Như thế các ngươi sẽ sống, và không chết đâu. Vậy, chớ nghe Ê-xê-chia, vì hắn gạt các ngươi khi nói rằng: Đức Giê-hô-va sẽ giải cứu chúng ta.”

 Họ có ý định bắt người Giu-đa về xứ để làm PHU TÙ cực khổ mà lại tuyên truyền về một đời sống SUNG TÚC và no đủ. Kẻ thù chúng ta là thế gian và ma quỷ luôn cám dỗ và hứa hẹn với chúng ta những sự giàu có và sung túc của vật chất đời nầy, với mục đích lôi kéo chúng ta đi xa Chúa và khiến cho chúng ta mất đi lòng tin cậy nơi Ngài.

 Có câu chuyện vui kể rằng một người kia qua đời được đưa đến cổng của Thiên đàng. Ông nhìn vào thì thấy ở đó đẹp đẽ, có thiên thần bay lượn qua lại, nhưng không thấy bạn bè nào quen hết. Thấy ông do dự, Phierơ cho ông ta được tự do lựa chọn. Ông sẽ được phép đi một vòng xem địa ngục trước, sau đó ông mới quyết định có muốn vào Thiên đàng hay không. Thiên sứ đưa ông ta xuống địa ngục, Satan ra rước ông và cho đi tham quan một vòng. Ông nhìn ngang các cửa sổ thấy quang cảnh bên trong thật sang trọng, mát mẻ, có nước trong ngần, bải biển trắng phau, có nhiều bạn bè mà ông quen biết đang ăn nhậu thỏa thê, được nhiều cô gái xinh đẹp chăm sóc, và trông họ rất vui sướng. Sau khi được đưa trở về cổng Thiên đàng thì ông nói với Phierơ là ông chọn ở địa ngục. Phierơ sai thiên sứ đưa ông ta trở lại địa ngục. Nhưng khi đến nơi thì Satan đưa ông đến một vùng tối tăm với những tiếng rên la ghê rợn, lửa nóng hừng hực, và đầy mùi hôi hám. Ông ngạc nhiên hỏi: Ủa! chổ tôi thấy lần trước ở đâu rồi? Satan nói: Haha! Cái quang cảnh đó chỉ để quảng cáo thôi! Ở đây mới thật là địa ngục!

 Nhiều người cũng bị ma quỷ lường gạt để rồi phải vào địa ngục và cuối cùng sẽ ở nơi hồ lửa đời đời với chúng. Chúng ta đừng để mình bị mắt mưu!

 Người A-si-ri dối gạt dân Giu-đa bằng những lời quảng cáo ngọt ngào để dễ dàng bắt họ làm phu tù mà khỏi cần đổ máu. Ráp-sa-kê lại tiếp tục gieo vào lòng dân Giu-đa ý tưởng Đức Giê-hô-Va không thể giải cứu họ cũng như các thần khác trong vùng đã không thể cứu giúp các dân tộc đó.  

Câu 35 – “Trong những thần của muôn nước, có thần nào đã giải cứu xứ họ khỏi tay ta chăng? Đức Giê-hô-va có thế giải cứu Giê-ru-sa-lem sao?”

Chúng gieo sự nghi ngờ Chúa vào lòng dân Giu-đa y như Sa-tan đã từng làm với Ê-Va tại vườn Ê-đen và với biết bao con dân Chúa từ xưa đến nay. Nhưng trước cám dỗ, chúng ta hãy thắng hơn ma quỷ như Vua Ê-xê-chia và dân sự thành Giê-ru-sa-lem

3)- THÁI ĐỘ HẠ MÌNH VÀ TIN CẬY CHÚA CỦA Ê-XÊ-CHIA

Trước những lời cám dỗ và thách thức đầy xúc phạm đó, vua Ê-xê-chia và dân sự im lặng không đáp lại một lời với chúng. Vua vào đền thờ, xé áo mình với thái độ ăn năn hạ mình trước mặt Chúa rồi sai một vài thầy tế lễ đến gặp thầy tiên tri Ê-sai để nhờ ông cầu nguyện và cho biết ý Chúa như thế nào.

 II Các-Vua 19:5-7“Các tôi tớ vua Ê-xê-chia đi đến Ê-sai. Người (Ê-sai) nói với chúng rằng: Các ngươi khá đáp với chủ mình (vua Ê-xê-chia) thế này: Đức Giê-hô-va phán như vầy: Chớ sợ hãi những lời các ngươi đã nghe các tôi tớ của vua A-si-ri dùng mà phạm đến ta. Ta sẽ khiến một thần (thiên sứ) đến cùng nó, làm cho nó (vua A-si-ri) nghe tiếng đồn, và nó sẽ trở về xứ mình; tại đó ta sẽ dùng gươm giết nó (vua A-si-ri).”

 Tạ ơn Chúa về những lời tiên tri đầy khích lệ của Êsai. Vua Ê-xê-chia cũng khéo léo truyền đạt đức tin mạnh mẽ của mình đến các lãnh đạo và dân sự:

 II Sử ký 32:6-8 – “Vua lập các tướng chỉ huy dân chúng, triệu tập họ đến quảng trường tại cổng thành và khích lệ họ rằng: “Hãy mạnh mẽ và can đảm lên, đừng sợ hãi và kinh hoàng vì vua A-si-ri và đám quân của người, bởi vì ĐẤNG Ở VỚI CHÚNG TA VĨ ĐẠI HƠN những kẻ đi với vua ấy; với vua ấy chỉ là cánh tay người phàm, còn CHÚA ở với chúng ta, Đức Chúa Trời chúng ta sẽ phù hộ và chiến đấu cho chúng ta.” 

Tinh thần của dân sự trở nên can đảm hơn nhờ lời của Ê-xê-chia, vua Giu-đa. Nhưng vua A-si-ri cứ tiếp tục gây hấn, sai sứ giả đến cố gắng làm cho Ê-xê-chia nghi ngờ đến chính Đức Chúa Trời của mình.

II Các-vua 19:10-11 “Các ngươi hãy nói như vầy với Ê-xê-chia, vua Giu-đa, mà rằng: Chớ để cho Đức Chúa Trời, là Đấng ngươi nhờ cậy, phỉnh gạt ngươi, mà nói rằng: Giê-ru-sa-lem sẽ chẳng bị sa vào tay vua A-si-ri. Kìa, người đã hay những việc các vua A-si-ri đã làm cho các xứ mà diệt đi hết thảy: còn ngươi, sẽ thoát khỏi nào!” (làm thế nào mà thoát khỏi!)

 Họ trao cho vua một bức thư với những lời sỉ nhục đến chính Đức Giêhôva:

II Sử-ký 32:17 “Người cũng viết thơ sỉ nhục Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, và nói phạm đến Ngài mà rằng: Hễ thần của các dân tộc thiên hạ chẳng giải cứu dân mình khỏi tay ta thế nào, thì thần của Ê-xê-chia cũng chẳng giải cứu được dân sự người khỏi tay ta thế ấy.”

 Nhận được thư, Êxêchia bèn đọc rồi lên đền thờ, trải thơ ra trước mặt Chúa và cầu nguyện cách thống thiết với Ngài.

II Các-vua 19:15-19 ~ “Ôi, Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên! Ngài vẫn ngự ở giữa các chê-ru-bin, chỉ một mình Ngài là Đức Chúa Trời của các nước thế gian. Chính Ngài đã làm nên trời và đất. Hỡi Đức Giê-hô-va! hãy nghiêng tai Ngài và nghe. Hỡi Đức Giê-hô-va! hãy mở mắt Ngài ra và xem. Cầu Chúa hãy nghe các lời mà San-chê-ríp sai nói, đặng phỉ báng Đức Chúa Trời hằng sống.

Đức Giê-hô-va ôi! quả thật các vua A-si-ri đã diệt các dân tộc, và phá hoang địa phận chúng nó, ném các thần chúng nó vào lửa; nhưng chẳng phải là thần, chẳng qua là công việc của tay người ta làm ra bằng gỗ và bằng đá; nên chúng hủy diệt các thần ấy.

Vậy bây giờ, hỡi Giê-hô-va Đức Chúa Trời của chúng tôi ôi! Hãy giải cứu chúng tôi khỏi tay San-chê-ríp, hầu cho muôn nước trên đất biết rằng chỉ một mình Giê-hô-va là Đức Chúa Trời.”

Trước những lời hăm dọa của San-chê-ríp, vua nước A-si-ri, Ê-xê-chia lại một lần nữa được lời hứa quý báu từ Chúa qua tiên tri Ê-sai.

II Các-vua 19:32-34 – “Bởi cớ đó, Đức Giê-hô-va phán về vua A-si-ri như vầy: Nó sẽ không vào thành này, chẳng xạ tên trong nó, cũng chẳng kéo đến giơ khiên lên trước mặt nó, và chẳng đắp lũy nghịch nó. Đức Giê-hô-va phán: Nó sẽ trở về theo con đường nó đã đi đến, không vào trong thành này. Vì tại cớ ta và Đa-vít, kẻ tôi tớ ta, ta sẽ binh vực thành này đặng cứu nó.”

Tạ ơn Chúa, Ngài đã nhậm lời cầu nguyện của vua Ê-xê-chia và hứa sẽ giải cứu ông. Chúng ta chú ý, Chúa hứa sẽ giải cứu ông KHÔNG PHẢI VÌ CÔNG ĐỨC CỦA CHÍNH ÔNG, dù ông cũng là một vị vua tin kính Chúa, nhưng vì hai lý do: 1) VÌ CỚ NGÀI, tức là vì lòng nhân từ và ân điển của Ngài. 2) VÌ ĐA-VÍT, tức là vì Ngài nhớ lại những lời hứa của Ngài cùng Đa-vít, tổ phụ của ông.

Bài học cho chúng ta là phải sống thế nào đó, để ngày kia, cũng vì chính đời sống chúng ta mà dù chúng ta đã qua đời rồi, Chúa vẫn sẵn sàng cứu giúp và ban phước cho con cháu chắc chít của chúng ta!

II Các-vua 19:35 cho biết cách giải cứu lạ lùng của Chúa – “Trong đêm đó, có một THIÊN SỨ của Đức Giê-hô-va đi đến trong dinh A-si-ri, và giết MỘT TRĂM TÁM MƯƠI LĂM NGÀN người tại đó. Sáng ngày mai, người ta thức dậy, bèn thấy quân ấy, kìa, chỉ là thây đó thôi.”

Có lẽ đó là thiên sứ Mi-chên (hoặc Mi-ca-ên), một thiên sứ rất hùng mạnh của Chúa. Thật ra thiên sứ nào cũng có năng quyền và tốc lực siêu nhiên để làm đủ thứ công việc phi thường mà từ xưa đến nay Đức Chúa Trời sai họ làm để bảo vệ, che chỡ và giúp đở con dân Ngài. Vì thế, chúng ta đừng quên kêu cầu Chúa sai thiên sứ giúp đỡ mình khi gặp gian nguy, đe dọa, hoặc cần thêm sức hay được chữa lành.  

 Y như lời tiên tri Ê-sai đã nói trước (19:7), khi nghe tiếng đồn về sự tổn thất quá nặng nề của quân đội mình tại Giê-ru-sa-lem, lòng vua San-chê-ríp tràn ngập kinh hãi trước quyền lực của Đức Chúa Trời của dân Giu-đa, nên ông ngã lòng rút binh khỏi thành Líp-na nơi mà ông đang bao vây (19:8) để trở về thành Ni-ni-ve. Nhưng Chúa không để cho ông yên thân, vì ông đã dám xúc phạm đến Ngài.

II Các-vua 19:37“Một ngày kia, người (vua A-si-ri) thờ lạy tại trong chùa Nít-róc, thần của mình (một thần bò), thì A-tra-mê-léc và Sa-rết-se giết người bằng gươm, đoạn chúng nó trốn trong xứ A-ra-rát. Ê-sạt-ha-đôn, con trai người, kế vị người.”

Sự đoán phạt của Chúa: San-chê-ríp bị chính con trai thứ nhì của ông là Arda-Mulissi phản bội, hắn sai hai cận thần giết ông bằng gươm để tiếm đoạt Ngai vàng. Chúa cũng khiến cho hai con ông sau đó lãnh đạo hai phe để sát hại nhau. Lịch sử A-si-ri có ghi lại là sau cuộc nội chiến thì phe người con trai thứ nhì đã thất bại, nên Ê-sạt-ha-đôn là người anh đã lên ngôi thay cho San-chê-ríp.

  

Kết luận: Tạ ơn Chúa, nhờ thái độ hạ mình trước mặt Chúa, với những lời cầu nguyện đầy đức tin, lòng tin cậy vững vàng nơi Đức Chúa Trời toàn năng, và lời phán của Ngài qua tiên tri Ê-sai mà Đức Chúa Trời đã giúp cho Ê-xê-chia chiến thắng. Ê-xê-chia đã chứng minh cho dân tộc của ông cùng các quốc gia thờ lạy những thần hư không trong vùng biết rằng chỉ có Giê-hô-va mới là Đức Chúa Trời, ngoài Ngài không có chân thần nào khác. Ngài là Vua trên muôn vua, Chúa trên các chúa. Ngài cầm quyền cai trị tối cao trên khắp vũ trụ. Ngài là Đấng vĩ đại, toàn năng, đáng được tôn quý và thờ phượng, vinh hiển, và quyền phép đến đời đời vô cùng!

 Đức Chúa Trời của Ê-xê-chia cũng là Đức Chúa Trời của chúng ta, Đấng hôm qua, ngày nay, và đến đời đời không hề thay đổi.

Thách thức cho chúng ta là người đã có Thánh Linh của Ngài trong lòng là chúng ta có HOÀN TOÀN TIN CẬY nơi Ngài để ĐẮC THẮNG những cám dỗ của thế gian, có dám GIAO PHÓ CUỘC ĐỜI của mình cho Ngài làm Chủ mỗi lần chúng ta gặp khó khăn trong cuộc sống nầy chăng?

Chỉ khi nào chúng ta tin cậy Ngài thì chúng ta mới có cơ hội KINH NGHIỆM được QUYỀN NĂNG vĩ đại và những PHÉP LẠ lớn lao mà Ngài sẽ thực hiện trong đời sống những ai hoàn toàn TIN CẬY Chúa, KÊU CẦU Ngài, và TRÔNG ĐỢI Ngài. Amen!

 


Comments

BG – “BÍ QUYẾT ĐỜI SỐNG ĐẮC THẮNG”, II Các-Vua 18 & 19 — No Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *