HomeHPGĐ HẠNH PHÚC GIA ĐÌNHHạnh Phúc GĐ – “Sống Thử… Sống Thật”

Xây Dựng Gia Đình – “SỐNG THỬ … SỐNG THẬT”

Mục sư Ngô Việt Tân

divorce

Bác sĩ Tâm Bệnh Học (Psychiatrist) Harry Stack Sullivan phân tích rằng những nan đề lớn nhất trong xã hội hiện đại hóa thông tin và kỷ thuật số là sự cô đơn (loneliness), sự cô lập (isolation), và sự tự ti, sự mặc cảm cũng như suy tư tiêu cực. Nguyên do tạo ra các nan đề này là do con người chúng ta thiếu vắng sự đối thoại hay mối liên hệ với những người khác như cha mẹ, anh chị em trong gia đình, bà con thân thuộc, bạn bè, hay bạn đồng nghiệp…

Trong quyển sách Weathering the Midlife Storm: Map a
Successful Course Through Your Middle Years (Wheaton, IL: Victor
Books, 1996), Bobb Biehl cho biết con người cần có 8 nhu cầu tình
cảm cho đời sống:

1) Nhu cầu được yêu thương (the need to be loved).
2) Nhu cầu làm điêù có ý nghĩa (The need to make a significant
difference).
3) Nhu cầu thích được khen ngợi (The need to be admired).
4) Nhu cầu được nhìn nhận về con người của mình (The need to
be recognized for who you are as a person).
5) Nhu cầu được cảm ơn, bày tỏ lòng biết ơn (The need to be
appreciated).
6) Nhu cầu được an toàn (The need to be secure).
7) Nhu cầu được tôn trọng (The need to be respected).
8) Nhu cầu được chấp nhận (The need to be accepted).

Vâng, tình cảm là nhu cầu và cũng là khát vọng thầm kín trong
tâm hồn của mỗi con người. Thi sĩ Tường Lưu tuyệt tác bài thơ “Tìm Tình Ái”:

Tìm tình ái! Có ai không tìm nhỉ?
Giàu hay nghèo, không tình ái, mất vui
Trong bao nhiêu thứ khoái lạc… mê người
Chỉ tình ái là thú vui… nhất hạng.
(Tường Lưu)

Bước tiến xa hơn ước vọng “Tìm tình ái” chính là chọn người để trao gởi trọn trái tim yêu đương đấm đuối như tiếng sét ái tình từ buổi đầu gặp nàng hay chàng, để cùng nhau nhảy múa theo nhịp tim nồng cháy, và để hai tâm hồn đồng thanh tâm tình:

Yêu ai, tôi muốn yêu thật nhiều
Mới đầu, vừa gặp gỡ, đã… yêu
Muốn yêu, yêu mãi, không phai lạt
Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu (Xuan Diệu).
(Tường Lưu)

Tình yêu là những giây phút của mộng mơ, những lời cao quý
của hứa hẹn giữa cặp tình nhân. Trái tim biết yêu kiến tạo tình yêu
tuyệt vời và tình bạn thiết hữu.
Một tiếng yêu thôi, đủ nhiệm mầu
Trai thanh, gái lịch… mộng bên nhau
Mơ ngày hạnh phúc… se duyên thắm
Khiến lòng xao xuyến, mối tình đầu (Hồ công Tâm)

Con người luôn mong ước tìm kiếm tình yêu, muốn nhận được yêu, và muốn tận hưởng hôn nhân bền lâu. Nhưng rất tiếc, thực tế rất là thất vọng bởi vì tình yêu con người vẫn còn nhiều thách thức và cám dỗ vây hãm. Điển hình như con số thăm dò của những cặp tài tử Hollywood, khoảng 14 cuộc hôn nhân đêù tồn tại dưới một năm:

Jennifer Lopez và Cris Judd – 9 tháng; Drew Barrymore và Tom Green – 9 tháng; Fred Armisen và Elisabeth Moss – 8 tháng; Chad Michael Murray và Sophia Bush – 5 tháng; Bradley Cooper và Jennifer Esposito – 4 tháng; Colin Farrell và Amelia Warner – 4 tháng; Renee Zellweger và Kenny Chesney – 4 tháng; Kid Rock và Pamela Anderson – 4 tháng; Nicolas Cage và Lisa Marie Presley – 3 tháng; Kim Kardashian và Kris Humphries – 72 ngày; Mario Lopez và Ali Landry – 2 tuần; Eddie Murphy và Tracey Edmonds – 2 tuần; Carmen Electra và Dennis Rodman – 9 ngày; Britney Spears và Jason Alexander – 55 giờ.

Trong quyển sách “Đời Ta” do tác giả Mục sư Tiến sĩ Phan Thanh Bình kể chuyện tình của một chàng gặp nàng là “yêu” và ước được “yêu” nàng suốt đời, nên liền vội:

Con quỳ lạy Chúa trên trời
Sao cho con lấy được người con yêu

Nhưng khi Chúa ban cho chàng “người yêu lý tưởng”, thì sau
đó thay đổi ý kiến mà khẩn nài xin Chúa cách thảm thương:

Con quỳ lạy Chúa trên trời
Sao cho con trốn được người con yêu
Rằng con thiếu nợ đã nhiều
Nàng còn mua sắm đủ điêù. Chúa ơi!
Con cày hai dzop hụt hơi
Người con yêu lại đua đòi chơi xe
Biểu gì con cũng phải nghe
Nếu con cãi lại là te-tua đời
Trước đây con tưởng gặp thời
Chúa ban con được tìm người con yêu
Giờ đây thân xác tiêu điêù
Đời con phải chịu lắm nhiêù đắng cay
Thân con chẳng khác trâu cày
Nợ nàng con trả dài dài chưa xong
Con giờ như cá lòng tong
Sụt ba chục ký, ốm nhong, rã rời
Thế mà đâu hết nợ đời
Nấu cơm, rửa chén, bị đòi… tù ti
Người đâu gặp gỡ làm chi
Để cho khổ thế còn gì là xuân?
Chúa ơi! Con khổ vô ngần
Chúa mà không giúp là thân con tàn
Con đang thiếu nợ trăm ngàn
Nhìn đồ nàng sắm hai hàng lệ rơi
Con quỳ lạy Chúa trên trời
Giúp cho con trốn được người con yêu.

Yêu đương kiểu này không khác gì yêu trong trạng thái “nửa sống nửa chết”. Thế mà, có người mong ước “thà yêu để rồi phải chịu khổ hơn là bị lỗ”.

Tại Hoa kỳ, hiện có khoảng 8.1 triệu cặp đang sống chung với nhau mà chưa làm đám cưới theo Cơ quan Thống Kê (US Census Bureau) của Mỹ. Theo cuộc nghiên cứu của 1,000 người lớn sống
chung (cohabited) với nhau trước hôn nhân trải nghiệm tỉ lệ 50 phần trăm li dị sau khi đã lập gia đình với nhau.

Năm 2011, Cơ quan The National Marriage Project tường trình khoảng 2/3 trẻ con có cha mẹ sống thử chung với nhau (cohabiting parents) có thể nhìn thấy cha mẹ của chúng đổ vỡ trước khi chúng lên
12 tuổi. Bản thống kê của U.S. Census Bureau cho biết Hoa kỳ có chừng hơn 12 triệu người sống chung với nhau trong 6,008,007 hộ từ năm 2005 đến 2007.

Theo Annual Review of Sociology, khoảng 75 phần trăm cặp sống thử (cohabiters) dự tính làm đám cưới với người sống chung của họ. Khoảng 55 phần trăm của những cặp sống chung cưới nhau trong vòng 5 năm, có 40 phần trăm cặp sống chung phải chia tay, và 10 phần trăm vẫn sống chung với nhau nhưng không cưới nhau trong thời gian 5 năm hay dài hơn (Smock, Pamela. 2000. “Cohabitation in the United States.” Annual Review of Sociology).

Khoảng 41 phần trăm phụ nữ Mỹ tuổi từ 15 đến 44 sống chung thử (Vital Health and Statistics, 23; 22). Năm 1995, khoảng 24 phần trăm phụ nữ tuổi 25 đến 34 sống chung, so sánh với 22 phần trăm phụ nữ tuổi từ 35 đến 39 sống chung, và 15 phần trăm phụ nữ tuổi từ 40 đến 44 sống chung. Bản so sánh này cho thấy những phụ nữ càng lớn tuổi dường như không thích thú và tự tin về lối sống chung, sống thử (Bumpass, Larry and Lu, Hsien-Hen. 2000. “Trends in Cohabitation and Implications for Children’s Family Contexts in the United States.” Population Studies, 54: 29-41).

Phần đông những người sống chung trước hôn nhân là thành phần có trình độ học vấn thấp và lợi tức thấp. Theo bản tường trình năm 2010, nhóm phụ nữ từ 25 tuổi đến 44 tuổi, có 75 phần trăm bỏ học từ cấp Trung Học so với nhóm có trình độ Đại Học sống chung là 50 phần trăm.

Phần đông những người sống chung hay sống thử trước khi cưới nhau cũng phổ thông trong các nhóm người không có niềm tin tôn giáo, những người trải nghiệm sự ly dị, những người có cha mẹ bị ly dị, những người không có cha, hay trải nghiệm thất bại hôn nhân từ tuổi thơ.

Một số người tin tưởng rằng sống chung trước hôn nhân sẽ giúp tìm hiểu nhau dễ hơn nhằm xây dựng hộn nhân vững bền. Rất tiếc, cuộc nghiên cứu đã cho chúng ta biết rằng ảnh hưởng tiêu cực của những cặp sống thử trước hôn nhân đêù phải đối diện với sự tan vỡ, hôn nhân bất ổn sau khi cưới nhau mặc dù đã đầu tư nhiêù năm tháng và năng lực tìm hiểu nhau sau thời gian sống chung.

Qua cuộc nghiên cứu của hơn 1,000 những nam giới và nữ giới lập gia đình bao gồm các cuộc hôn nhân sống chung, và kết quả cho biết những người sống chung trước khi lễ hứa hôn (engagement) đã
gặp nhiều nan đề trong hôn nhân, và kém hạnh phúc hơn trong hôn nhân.
Tại Canada, một số các tỉnh bang vẫn còn nhiều người sống theo truyền thống lập gia đình như Prince Edward Island (72.7 phần trăm), Ontario (72.3 phần trăm) and Alberta (72.0 phần trăm). Tại những thành phố lớn, số người lập gia đình theo truyền thống cũng cao như tại thành phố Abbotsford – Mission (75.7 phần trăm) and Vancouver (73.8 phần trăm) tỉnh British Columbia, thành phố Toronto, Ontario (74.0 phần trăm), Steinbach, Manitoba (83.0 phần trăm) và Parksville, British Columbia (79.3 phần trăm).
Tại Canada, tỉ lệ sống chung trước hôn nhân (common-law) của những cặp Canada khá cao tại các lãnh thổ và Quebec. Tại lãnh thổ territories, có (32.7 phần trăm), tại Northwest Territories (28.7 phần trăm) và Yukon (25.1 phần trăm). Tại tỉnh Quebec, có 31.5 phần trăm của những cặp sống chung (common-law couples).
Tại Âu Châu, những cặp sống chung ở lục địa này cũng có tỉ lệ khá cao như: Thụy điển – Sweden (29.0 phần trăm năm 2010), Phần Lan – Finland (24.7 phần trăm năm 2010), và Na-uy – Norway (23.9 phần trăm năm 2011).

Glenn T. Stanton viết bài với đề tài Sinh hoạt tình dục trước hôn nhân có hệ lụy cho hạnh phúc của hôn nhân tương lai chăng? (Does premarital sex have practical consequences for future marital Does premarital sex have practical consequences for future marital happiness?). Đây là câu hỏi mà nhiêù bạn trẻ cầu suy nghĩ và suy tính về những hành động và xây đắp tình cảm của mình nhằm kiến tạo quyết định khôn ngoan cho cuộc sống. (Glenn T. Stanton is the director for family formation studies at Focus on the Family in Colorado Springs).

Theo dữ kiện thăm dò trải qua các thập niên qua, những sinh hoạt tình ái trước hôn nhân đều liên quan đến hệ lụy ly dị sau hôn nhân. Tim Heaton, Nhà Xã Hội Học tại Đại Học Brigham Young,
nghiên cứu yếu tố ảnh hưởng tiêu cực cho những cặp sống thử trước khi cưới nhau. Kết quả cho biết những người có quan hệ tình dục trước hôn nhân, có con trước hôn nhân, sống chung trước hôn nhân, và những người lập gia đình với người khác niềm tin, sẽ có nguy cơ của ly dị.

Nhà Xã Hội Học Sociologist Jay Teachman đã nghiên cứu thế nào tác động của những liên hệ tình dục trước hôn nhân và sống chung trước hôn nhân đêù có nguy cơ ly dị và nan đề trong hôn nhân. (Jay Teachman, “Premarital Sex, Premarital Cohabitation, and the Risk of Subsequent Marital Dissolution Among Women,” Journal of Marriage and Family 65 (2003): 444-455, p. 454).

Trong ngữ cảnh Canada, Warren Clark and Susan Crompton nghiên cứu nguyên do nào tạo ra sự đổ vỡ của những cuộc hôn nhân lần đầu và lần thứ hai. Warren và Susan ghi nhận rằng “sống chung đêù ảnh hưởng đến sự đổ vỡ trong hôn nhân lần đầu. Thực tế, có khoảng 50 phần trăm nguy cơ cho những người sống thử trước khi cưới nhau hơn những người không sống thử” (“Living common-law is also strongly associated with a first marital breakdown. In fact, the …before the wedding than among those who did not.” (Warren Clark and Susan Crompton, “Till death do us part? The risk of first and second marriage dissolution,” Canadian Social Trends 81 (Summer 2006):
23-33, p. 24).

Cuộc nghiên cứu của Anthony Paik at the University of Iowa về kinh nghiệm liên hệ tình dục lần đầu của nữ thiếu niên (teen) sẽ có ảnh hưởng về ly dị trong tương lai hơn gấp đôi những phụ nữ có liên hệ tình dục chưa kết hôn ở tuổi thành nhân. (Anthony Paik, “Adolescent Sexuality and Risk of Marital Dissolution,” Journal of Marriage and Family 73 (2011): 472-485, p. 483, 484).

Tại xã hội Việt Nam ngày nay, một số dư luận và giới truyền thông đã đăng lên những bài viết phân tích và lên tiếng báo động những hệ lụy của lối sống thử, sống chung trước hôn nhân, “chuyện góp gạo thổi cơm chung” hay giới sinh viên gọi là “tình yêu sống thử”.

Đối diện với những phát triển xã hội, đô thị hóa, kinh tế càng đi lên, hiện đại hóa, và sự hội nhập văn hóa Tây phương, các bạn trẻ đã vô tình bỏ qua gía trị về đạo đức, văn hóa, hay truyền thống tốt đẹp của người Việt.

Một khi con người xem thường những giá trị của đạo đức và niềm tin tôn giáo, thì con người chỉ tìm đến nhau không phải bằng tình yêu chân thật xuất phát từ con tim, mà chỉ để trao đổi cho những ham muốn dục vọng, nhu cầu thể xác tầm thường, nhu cầu để lấp chỗ trống của tình cảm và tiện nghi. Những nguyên nhân gây ra nếp sống thử của giới trẻ chính là xã hội Việt Nam đang suy thoái về đạo đức trầm trọng, cha mẹ thiếu quan tâm chăm sóc con cái vì quá bận rộn với cuộc mưu sinh, và nhà trường là nơi mà các bạn trẻ dễ bị áp lực và cám dỗ từ bạn bè xấu. Theo Hội Kế Hoạch Hóa Gia Đình cho biết “Trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở độ tuổi 15-19, trong đó 60-70% là học sinh, sinh viên”. Việt Nam là quốc gia có tỉ lệ phá thai ở tuổi vị thành ni ên cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 5 trên thế giới.

Những Hệ Lụy Tâm Sinh Lý Và Thể Xác Của Việc “Sống Thử”

a) Những va chạm, căng thẳng xảy ra chỉ vì sự bất đồng quan niệm sống, cá tính, và thói quen.
b) Sau thời gian quan hệ tình dục, có bạn đã mắc bệnh như bệnh lậu, giang mai, viêm nhiễm, nấm ngứa, căn bệnh thế kỷ HIV.
c) Ghen tương và chửi bới nhau gây ra hành vi bạo lực.
d) Bởi những áp lực và lời đe dọa của người bạn sống thử có bạn đã chọn sự tự vẫn là giải pháp cho mình.
e) Có bạn phải chọn việc nạo phá thai là giải pháp và phải chuốc lấy hậu quả khôn lường như: chảy máu, viêm nhiễm, thủng tử cung, và có thể dẫn tới vô sinh.
f) Nhiều cặp đôi sống thử phải chia tay trong cay đắng, thù hận, và vẫn chưa hiểu biết rõ thật sự về người bạn mà mình đã sống thử trong thời gian qua.

Những Nguy Cơ Cho Phục Nữ & Trẻ Con Của Lối “Sống Thử”
Năm 2013, bản tường trình của Cô Quan the National Center for Health Statistics của Hoa Kỳ dựa theo cuộc phỏng vấn từng cá nhân (in-person interview) qua 12,279 phụ nữ tuổi từ 15 đến 44 tuổi trong khoảng thời gian năm 2006 đến 2010.

a) Tỉ lệ của phụ nữ sống thử chung với nam giới tăng từ 34 phần trăm năm 1995 lên 43 phần trăm 2002.
b) Năm 1995, thời gian sống thử “lần đầu” trung bình kéo dài khoảng 13 tháng tăng lên 20 tháng vào năm 2002.
c) Có 19 phần trăm phụ nữ mang thai và sanh con trong năm đầu tiên sống chung với bạn trai.
d) Có khoảng 70 phần trăm phụ nữ không có Bằng chứng chỉ Trung Học (a High School diploma) khi lần đầu sống thử, so sánh với 47 phần trăm phụ nữ có Bằng Cử Nhân Đại Học hay
Bằng cấp cao hơn.
e) Khoảng 40 phần trăm của những trẻ con được nuôi dưỡng trong môi trường sống thử hiện nay. Có 21 phần trăm trẻ em được sinh ra trong môi trường sống thử.

Những Ảnh Hưởng Tiêu Cực Của Lối Sống Thử

a) Cuộc nghiên cứu 1992 dựa theo 3,300 trường hợp của những cặp đôi sống chung trước hôn nhân (coupled who cohabited prior to marriage) có nguy cơ dẫn đến ly dị khoảng 46 phần
trăm cao hơn những cặp không sống thử (Journal of Marriage and the family: February 1992).
b) Tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm của những cặp đôi sống thử cao gấp 3 lần hơn những cặp đôi không sống thử (Journal of Health and Social Behavior: September 2000).
c) Những phụ nữ có mối liên hệ sống thử rất dễ bị lạm dụng thể xác và bị lạm dụng về tình dục hơn những phụ nữ lập gia đình (National Project, Rutgers University: 2002).
d) Càng sống thử lâu tháng, cặp đôi sống thử sẽ không mấy nhiệt tình trong hôn nhân và vấn đề sinh đẻ con cái (Journal of Marriage & Family: 59, 1997).
e) Những cặp đôi sống thử được tường trình có mức độ hạnh phúc thấp hơn, có mức độ thấp hơn về thỏa mãn tình ái, và mối liên hệ với cha mẹ kém cõi hơn (Journal of Family Issues: January
1995).
f) Các cặp đôi sống thử không có cam kết đạo đức giống như các cặp đôi không sống thử. Đây chính là lý do khiến tỉ lệ ly dị cao của các cặp đôi sống thử trước hôn nhân (Journal of Marriage
and the Family: August 1997).
g) Những người sống thử dễ mắc chứng bệnh trầm cảm (depression) cao hơn những người không sống thử (Alabama Policy Institute: August 2006).
h) Khi càng sống thử càng lâu, cặp đôi có khuynh hướng dễ tranh cãi, đánh nhau, ném các vật khi có xung đột xảy ra (Alabama Policy Institute: August 2006).
i) Các phụ nữ sống thử có nguy cơ gấp 9 lần bị giết hại cao hơn các phụ nữ lập gia đình. Trong mối liên hệ sống thử, các phụ nữ trung niên có nguy cơ cao nhất bị giết hại (Shackelford,
T.K. & Mouzos, J., 2005. Partner Killing by Men in Cohabiting and Maritial Relationships: A Comparative, CrossNational Analysis of Data from Australia and the United States. Journal of Interpersonal Violence, Vol. 30, number 10, 1310-1324).

Những Ảnh Hưởng Nguy Hại Của Trẻ Con Trong Môi Trường Sống Thử

a) Bản tường trình của Department of Health and Human Service của Hoa Kỳ cho biết các trẻ con sống với cha mẹ ruột có tỉ lệ thấp 6.8 trong 1,000 trẻ bị hãm hại, trong khi trẻ con sống với
cha mẹ sống thử có nguy cơ bị hảm hại cao 57.2 trong 1,000 trẻ, tức trẻ con có cha mẹ sống thử có nguy cơ bị hãm hại cao gấp 8 lần hơn các trẻ con sống với cha mẹ cưới nhau (Abuse,
Neglect, Adoption and Foster Care Research, National Incidence Study of Child Abuse and Neglect, NIS-4, 2014-2009, March 2010, Office of Planning, Research and Evaluation).
b) Trẻ con được sanh ra trong cặp đôi sống thử có nguy cơ cao hơn 5 lần trải nghiệm cha mẹ ly hôn (Smock P, 2010).
c) Vài nghiên cứu cho biết trẻ con sống chung với người mẹ là người sống chung với người bạn trai không cưới nhau có nan đề cư xử và khà năng học vấn thấp hơn các trẻ con sống với cha mẹ cưới nhau (Social Forces 73-1: 1994).
d) Nạn trẻ con bị lạm dụng (child abuse) là nan đề lớn trong môi trường sống thử (National Marriage Project, Rutgers University: 2002).
e) Khoảng ¾ của trẻ con sanh ra bởi cha mẹ sống thử sẽ nhìn thấy cha mẹ của các cháu chia tay trước khi chúng lên 16 tuổi. Trong khi chỉ có 1/3 các trẻ con có cha mẹ cưới nhau sẽ trải nghiệm cha mẹ chia tay (National Marriage Project, Rutgers University: 2002).
f) Điêù minh chứng xác định là môi trường không an toàn cho trẻ con khi người mẹ sống chung với bạn trai (The Heritage Foundation, Washington, DC: 1997).
g) Anne-Marie Ambert, tác giả của cuộc nghiên cứu được ghi chép lại trong hàng trăm trang giấy khảo luận về lãnh vực tình cảm, ảnh hưởng tài chánh của sự sống thử và hôn nhân của phụ nữ, nam giới, trẻ con và xã hội, đã kết luận sự sống thử lien hệ tới sự không bền vững và đem đến hệ lụy cao cho trẻ con về mặt tâm lý lẫn sự phát triển thể xác.
h) Ambert ghi nhận rằng “Sự cam kết và sự vững bền chính là then chốt cho nhu cầu trẻ con; vì thế môi trường sống thử đêù thiếu hai điêù kiện này” (Vanier Institute of Family, “Cohabitation and Marriage: How are They Related?, 2005).

“Sống thử” trước khi lập gia đình có phải là quyết định khôn ngoan nhằm giúp bạn tận hưởng lối sống lành mạnh, vui thỏa, và kiến tạo một hôn nhân hạnh phúc cho bạn chăng? Có bao giờ bạn suy gẫm tại sao nếp sống thử trước hôn nhân lại gây ra khá nhiều hậu quả tiêu cực cho gia đình, Hội thánh, xã hội, và nhất là tình cảm, thể xác cũng như tâm linh của cá nhân? Bạn có sẵn sàng trả một giá quá đắc và nguy cơ của lối sống thử? Bạn có tìm hiều và nghiên cứu thật kỷ về lợi ích và tác hại của lối sống thử cho hiện tại cũng như tương lai của bạn và con cái của bạn khi sống chung với người khác phái?

“Sống thật” là lối sống theo nguyên tắc lời Thiên Chúa dạy trong Thánh Kinh sẽ bảo toàn tình yêu cam kết, mối liên hệ hôn nhân bền vững, và gia đình hạnh phước. Khi bạn “sống thật” với tiêu chuẩn lời Chúa, hôn nhân của bạn sẽ được xức dầu ân điển của Đức Chúa Trời để được quang phòng, thêm sức, và phục hưng cho hôn nhân bền vững, được định hướng trong quỉ đạo tâm linh sung mãn. Hãy “sống thật” theo mạng lệnh Chúa bởi vì “Ngài là Đức Chúa Trời thành tín, giữ giao ước và tình yêu thương của Ngài đến cả ngàn thế hệ cho người nào kính yêu Chúa và vâng theo mạnh lệnh Ngài” (Phục truyền 7:9 BDM).

Mục Sư Ngô Việt Tân


Comments

Hạnh Phúc GĐ – “Sống Thử… Sống Thật” — No Comments

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *